April 19, 2024, 12:24 pm

Nhã nhạc Huế - Di sản văn hóa của nhân loại

 

Nhã nhạc Huế (Âm nhạc cung đình Việt Nam) có từ thế kỷ thứ 13, nhưng chỉ đạt đến độ điêu luyện tại cung đình Huế dưới triều Nguyễn (1802 - 1945). Các vị vua Nguyễn coi Nhã nhạc là âm nhạc chính thức của cung đình. Dưới triều Nguyễn, Nhã nhạc đã trở thành một phần thiết yếu của quá trình nghi lễ. Loại hình nghệ thuật này được trình diễn trong toàn bộ thời gian của gần 100 buổi lễ khác nhau mỗi năm. Phong phú về nội dung, Nhã nhạc đã được xem như một phương tiện liên lạc, bày tỏ lòng tôn kính đến các vị thần linh và bậc đế vương. Ngoài ra, nó còn như là một phương tiện cho việc truyền đạt những ý tưởng mang tính triết lý và những khía cạnh về vũ trụ của người Việt Nam.

Thuật ngữ Nhã nhạc không chỉ chứa đựng hệ thống âm nhạc cung đình dựa trên thang ngũ âm mà còn bao hàm cả sự trình diễn thực tế; được đặc trưng bởi sự đa dạng của các loại nhạc cụ và chỉ được biểu diễn vào những dịp nào đó, với các ca công và vũ công riêng. Trống đóng vai trò chủ đạo trong các dàn nhạc cung đình gồm nhiều nhạc công và mỗi nhạc công phải có sự tập trung cao để theo được mạch tất cả giai đoạn lễ nghi kéo dài.

  Những biến cố diễn ra ở Việt Nam trong thế kỷ 20, đặc biệt là sự sụp đổ của Vương triều Nguyễn và những thập kỷ chiến tranh liên miên đã đe dọa nghiêm trọng sự sống còn của Nhã nhạc. Bị mất đi ngữ cảnh cung đình, loại hình âm nhạc này đã mất đi một phần chức năng xã hội nguyên thủy của nó. Với sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ và cộng đồng địa phương, một vài nhạc công xưa của cung đình nay đã ở cái tuổi “cổ lai hy” đang cố gắng làm sống lại truyền thống này và truyền đạt những kỹ năng biểu diễn Nhã nhạc cho thế hệ trẻ. Một số hình thức Nhã nhạc còn lại trong các tế lễ và lễ hội dân gian vẫn là một nguồn cảm hứng cho âm nhạc Việt Nam đương đại.

Ngày 7/11/2003, Tổng Giám đốc UNESCO Kiochiro Matsuura chính thức công bố Nhã nhạc Huế được ghi tên là 1/28 kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại trong buổi lễ được tổ chức tại Paris, Pháp. Đây cũng là di sản phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được công nhận vào danh mục này.

Sau khi được tôn vinh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, theo khuyến nghị của UNESCO, Cục Di sản Văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế tổ chức lớp tập huấn giới thiệu những nghệ nhân là "báu vật nhân văn sống" của Huế, tiến tới thiết lập một hệ thống "báu vật nhân văn sống" của Việt Nam. Sự đóng góp của những nghệ nhân ấy thời gian qua đã góp phần làm giàu giá trị di sản văn hóa Huế.

  Đặc điểm của Nhã nhạc Huế là truyền nghề, trong khi những "Báu vật nhân văn sống" đều đã lớn tuổi.

Dưới Triều Nguyễn, đội nhạc Hòa Thanh trong cung đình (còn gọi là tiểu nhạc) có 10 người. Trước khi mất, trong mấy năm qua, nhất là sau khi Nhã nhạc Huế (Nhạc cung đình Việt Nam) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, những nhạc công cuối cùng trong đội nhạc triều Nguyễn đã nỗ lực giúp Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại Nội - Huế) phục dựng, bảo tồn các giá trị truyền thống của loại âm nhạc cung đình. Ông Trương Tuấn Hải, Đạo diễn sân khấu, Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật cung đình Huế (Nhà hát Duyệt Thị Đường) cho biết: Hiện nay, Nhà hát Nghệ thuật cung đình Huế đã xây dựng được đội ngũ gồm 90 diễn viên và nhạc công, tổ chức biểu diễn liên tục mỗi ngày 4 suất phục vụ khách tham quan, du lịch. Kết quả này có sự đóng góp rất lớn của hai nhạc công cuối cùng trong đội nhạc cung đình triều Nguyễn còn lại trên đất Cố đô.

Nhã nhạc có yếu tố truyền khẩu là chủ yếu do đó muốn lưu giữ được loại hình nghệ thuật này các nghệ nhân cao tuổi phải vừa hướng dẫn vừa chỉnh đốn vừa từng bước truyền nghề cho các thế hệ.

Nhã nhạc Huế, ngoài yếu tố nội lực còn được "tiếp sức" trong dự án "Bảo tồn và phát huy những giá trị Nhã nhạc Huế (Nhạc Cung đình Việt Nam)". Theo đó, UNESCO thông qua Quỹ ủy thác Nhật Bản đã tài trợ kinh phí 154.900 USD cùng với nguồn đối ứng từ Chính phủ Việt Nam là 190.000 USD để bảo tồn và phát huy những giá trị của Nhã nhạc như: Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao phương pháp luận về nghiên cứu, lưu trữ cho 10 cán bộ; tuyển sinh và truyền dạy nghề theo kiểu truyền thống cho 20 nhạc công Nhã nhạc (trong đó có 18 nhạc công được tuyển vào làm việc tại Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế). 

Những người thực hiện Dự án còn tập trung nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ và phục hồi bài bản nhã nhạc tiêu biểu, như Thái Bình cổ nhạc, các bản ca Thài trong lễ tế Nam Giao; chuyển biên các bài bản Nhã nhạc; lập hồ sơ các nghệ nhân tiêu biểu là những "báu vật nhân văn sống". Đặc biệt, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế còn phối hợp với nhà nghiên cứu Trịnh Bách phục chế trang phục Nhã nhạc Huế gồm: 15 áo mão Đại nhạc, 15 áo mão Tiểu nhạc, 64 áo Giao lĩnh Bát dật Văn, 64 Trấn thủ Bát dật Võ...

Âm nhạc cung đình Huế càng có giá trị hơn khi UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong những năm qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn được 10 nhạc chương trong lễ Tế Giao, 9 nhạc chương trong lễ Tế Miếu, 5 nhạc khúc trong lễ Đoan Dương, Vạn Thọ và Tết Nguyên đán, 40 nhạc khúc trong diễn tấu với đội Tiểu nhạc, 14 nhạc khúc kèn dùng trong Đại nhạc, 10 nhạc khúc diễn tấu khi có Vua ngự. Nhiều tiết mục đã được Nhà hát Duyệt Thị Đường dàn dựng và biểu diễn như: Trống Thái Bình, Tam luân cửu chuyển (đại nhạc); Phú lục dịch, Kim tiền (tiểu nhạc); Vũ phiến, Lục cúng hoa đăng (múa) và nhiều trích đoạn tuồng cổ như Kỷ Lan Anh, Ôn Đình chém Tá. Giám đốc Nhà hát Duyệt Thị Đường Trương Tuấn Hải cho biết, có 15 điệu múa cung đình đã được biên soạn; đồng thời, phục hồi được một số điệu múa khác như: Trình tường tập khánh, Nữ tướng xuất quân, Lân mẫu xuất lân nhi, Song phụng, Long hổ hội. Nhà hát còn dàn dựng được 13 điệu múa nâng cao như: Huyện Trân, Lộng Điệp, Xẩm Huế, Phách nhịp du xuân. 

Nhà hát Duyệt Thị Đường (được xây dựng cách đây 200 năm) tuy mới được trùng tu đưa vào sử dụng nhưng đã kế thừa lịch sử, tiếp tục khai thác, phục hồi những tác phẩm tiêu biểu có khả năng bị thất truyền, nhất là Nhạc lễ cung đình Huế để đưa Nhã nhạc Huế, một loại hình âm nhạc chốn cung đình đến với công chúng. 
Những thành quả trên có một phần đóng góp không nhỏ của các nghệ nhân - "Những báu vật nhân văn", những người góp phần giữ "hồn" cho Nhã nhạc Huế.

Nguồn Văn nghệ số 31/2018


Có thể bạn quan tâm