April 17, 2024, 6:23 am

Đọc thơ Mai Thìn nghe "Tiếng chim về cũ" ( tiếp theo và hết)

(Tiếp theo và hết)

 

Với một quan niệm nghệ thuật sáng rõ như thế, hẳn nhiên Mai Thìn đã xác lập và qui chiếu cho mình những tiêu điểm thẩm mỹ thơ để hình thành nội dung thơ, hình tượng thơ, ngôn từ thơ mang cá tính sáng tạo riêng. Trước hết, tôi muốn nói đến cảm thức hoài vãng trong thơ Mai Thìn. Đây có thể xem là chìa khóa để mở lối vào thơ anh. Nhìn lại, đồng hiện là cách tốt nhất để nhà thơ hiện hữu mình như một hiện sinh đích thực trong từng kinh nghiệm sống. Và như thế, thời gian không mất đi mà chính là thời gian được phục sinh những quan hệ quá khứ để mộng mơ vào tương lai mà trong từng khoảnh khắc đồng hiện chủ thể nhận ra:

                              Gần hết một đời

                              mong được đóa hoa thơm dâng tặng quê hương

                              đầu đã bạc

 

                              mỏi chân về lại ngàn xưa

                              bất chợt

                              dưới bóng quê nhà

                              tiếng chim ca

`                                                 về cũ.

                                                  (Tiếng chim về cũ)                   

 Ký ức sâu đậm trong anh là mẹ, là cha, là mái nhà xưa với bóng ngày qua càng rộng dài theo năm tháng. Đó là những hình ảnh và hình tượng thân thương, xao động nhất: “nhớ hàng râm bụt/ nhớ cây cau/ đã phải vì ta mà chịu khuất/ một khoảnh vườn xưa/ vương trong tim”  (Nhớ nhà).

Cảm thức hoài vãng là sự vận động hình tượng thời gian chính trong thơ Mai Thìn. Anh thể hiện nỗi lòng mình và nhập vai để nói nỗi lòng người thân về nỗi nhớ quê day dứt: “Rã rời trong nỗi nhớ quêmẹ mang cau héo hong nhờ mái hiêndõi nhìn bóng nắng xiên xiêntrầu têm nửa cánh ưu phiền nhạt vôi”. Bóng mẹ cha là tượng trưng cho bóng quê và những gì thiêng liêng nhất khi nghĩ về cội nguồn nơi chôn nhau cắt rốn:

                              một đời bóng mẹ toả quanh

                              cây lên thành trái, trái thành chúng con

                              bây giờ dáng mẹ hao mòn

                              vào ra thơ thẩn nhớ con, nhớ làng.

                                                                      (Nhớ quê)

Bởi vì trong anh, không có đâu bằng đồng ruộng quê nhà với mái tóc mẹ bay trong chiều lộng gió, thơm hương lúa đồng cùng mùi rơm rạ: “tôi lớn lên đi khắp cùng thế giới/ mênh mông hơn, hùng vĩ hơn nhiều/ nhưng không có/ hương tóc lùa đồng lúa/ và/ bóng mẹ tôi ngồi tựa cửa xoáy trầu trưa” (Làng Vĩnh Phú).

Chỉ có nỗi nhớ và hành trình trở về trong không/ thời  gian hoài niệm thì con người mới có dịp lau chùi ký ức của mình một cách cụ thể và xúc động nhất: “Lâu lâu con lại về ngôi nhà xưa/ lau dọn từng ký ức/ sáng lên dưới lớp bụi mờ/ mà như thấy mẹ đi mẹ đứng mẹ nằm mẹ ngồi/ dáng còng liêu xiêu/ cơi trầu nhẫn nại/ mấy chục năm rồi vẫn không già hơn”. Từ đó, ký ức sáng bừng lên trong niềm vui tái sinh, sum họp:

                              lâu lâu con lại về

                              lau chùi từng ký ức

                              như lau gương mặt mẹ

                              mừng vui dưới bụi mờ.

                                        (Lau dọn ký ức)

 Bóng quê nhà cũng từ đó cụ thể hơn trong từng hình ảnh đồng hiện. Không gian sinh thái tuổi thơ còn đây như ngày nào thơ bé, khiến nhà thơ không cầm được rưng rưng, dù hiện tại tuổi nhà thơ theo năm tháng lớn dần: “qua năm tháng tưởng rồi như sợi tóc/ bạc trắng theo ngút ngát cuộc người”. Vậy mà bóng quê nhà vẫn còn đây trong từng hình ảnh trực cảm, gần gũi:

                              quê nhà là cái bến sông trong vắt

                              con bống con ấp vào trong bóng mẹ

                              nước lơ thơ thuở nhỏ tôi đằm

 

                              cảm ơn cây thị già, cảm ơn bống

                              trong lòng tôi neo mãi đến giờ

                              bóng quê nhà phủ kín những trang thơ.

                                                                 (Bóng quê nhà)

 Bóng làng luôn chập chờn trong những thao thức của Mai Thìn với “những địa danh lăn lóc bao đời”. Chúng thoáng hiện và lưu dấu trong tâm hồn nhà thơ từng đợt nhấp nhô:

                              lưu dấu mãi dáng hao gầy ngọn núi 
                              nhấp nhô trông từng bóng tháp Chàm 
                              mây thương nhớ vắt qua làng đợt đợt 
                              như nỗi niềm bao kẻ xa quê

                                                              (Làng Vĩnh Phú)

Cái gạch nối giữa cảm thức hoài vãng và hiện tại là nỗi nhớ. Anh nhớ từng tiếng gà gáy sáng, nhớ tiếng chim gù trong ký ức, nhớ cả tiếng bom ngày sơ sinh mẹ mang anh chạy giặc, ở đó: “máy bay quần đảo trên đầu/ súng nổ/ và tiếng gà đẻ trứng/ là những âm thanh tôi đón nhận mặt trời” (Tiếng vọng đầu). Và từ đó, anh thấy mình mắc nợ với cuộc đời này lớn hơn, sâu hơn và xa xót hơn hiện thực rất nhiều: “tôi nợ cuộc đời này/ cả những thương đau”, những thương đau đã nuôi lớn tâm hồn anh, làm nên một Mai Thìn hiện hữu. Biết mình mắc nợ, tức là biết mình phải tìm cách đáp đền. Tận cùng của tình cảm và ứng xử văn hóa là vậy! Bởi vì, quê hương đã nuôi dạy anh lớn thành người: “cây xương rồng trên cát/ dạy tôi bền lòng/ bờ tre cha trồng/ dạy tôi làm đàn ông/ phải biết bảo vệ, phải biết nhún nhường/.../ dạy tôi gột cho sạch/ những hạt bụi đường/ những hạt bụi đời/ mong/ làm chùm quả ngọt” (Bên chái bếp của mẹ).

 Từ cảm thức hoài vãng cụ thể có liên quan đến tình cảm và quan hệ cá nhân mình, Mai Thìn đã lần tìm đến những sự vật và chứng tích u trầm của lịch sử và văn hóa vật thể, phi vật thể. Qua đó, anh có dịp bừng thức trước những cổ mẫu điển hình ngay trên quê hương anh mà mỗi lần tiếp nhận nó, anh nhận ra thêm nhiều ý nghĩa mới. Nhìn những viên gạch tháp Chàm, anh thấy được bước thời gian đi trong từng màu đất để hiểu về “bất biến và chia ly”. Và thời gian đã kịp minh chứng cho sức sống vĩnh cửu từ sự sáng tạo của con người:

                              suốt mấy trăm năm 
                              những viên gạch tháp Chàm 
                              dán lên thời gian
                              
mã vạch của vẻ đẹp vĩnh cửu.

                                        (Những viên gạch tháp Chàm)

Nhìn ba ngọn tháp Dương Long, anh cũng nhận ra chúng như là bóng dáng ba chàng trai ra đi từ lửa - những cổ mẫu mộng mơ: “Ba ngọn bút vẽ lên trời xanh/ vẽ lên thời gian/ vẻ đẹp của tháp”. Và người đời sau đến thăm, lòng ngưỡng mộ đã làm dài thêm bóng tháp. Bài thơ mang vẻ đẹp ánh xạ thị giác trong người đọc:

                              ba chàng trai bước ra từ lửa

                              bước ra từ đất, từ nước

                              tôn cao nhau

                              quyện vào nhau

                              tiếng hát

 

                              chúng tôi đến thăm

                              vô tình

                              làm dài thêm

                              bóng tháp.

                                                  (Dương Long)

 


 Mỗi dáng đá Mỹ Sơn đều có linh hồn. Chúng được người xưa tạc lên thành sự sống phồn thực, làm nên minh triết của sự sống: “Những Linga Yoninhững vị thầnnhững đỉnh núi quên tênlàm nên dáng đá/ vũ nữ Apsara vòng eo rêu xanh/ phập phồng/ bước ra từ đá”. Ở đó, thời gian và sự sống của đá còn mãi trong sự tác động của tiếng kèn, vầng trăng và gió:

 

                              bài tình ca u u
                              lưng chừng nụ cười phớt qua
                              mê mẩn vẻ đẹp của đá

 

                              tiếng kèn saranai
                              vầng trăng lẻ loi đêm nay
                              níu vào trong đá

 

                              âm âm gió vọng về
                              hồn đá
                              thoảng
                              đâu đây…

                                                            (Hồn đá)

 Cũng với cái nhìn nghi vấn và đối thoại với lịch sử, với quá khứ. Nhìn Hội An trong nắng, trong mưa, liên hệ đến trang sách, cuộc đời, anh thấy trong mắt mình đọng những vui buồn nhân thế: “Hội An trăng/ lững thững những con đường/ vương/ từ trang sách/ lật giữa cuộc đời/ rơi/ ánh mắt cười/ năm cũ” (Hội An). Nhìn những chiếc lá ngô trên bãi sông Hồng, anh lại thấy cả một trời dĩ vãng thầm thĩ qua phù sa ánh trăng Châu Thổ:

                              hổn hển trăng khuya

                              những chiếc lá ngô trên bãi Sông Hồng

                              hát

                              hát mãi bài ca sinh nở

                              đất đai rùng mình đón nhận phù sinh

                                        (Những chiếc lá ngô trên bãi sông Hồng)

 Như vậy, về một cạnh khía ý nghĩa nhân sinh mà nói thì, quá khứ và lịch sử cần cho con người và cuộc sống hôm nay hơn là cần cho chính nó.

 Trong Tiếng chim về cũ, tôi muốn dừng lại ở chùm thơ Mai Thìn tưởng nhớ các nhà thơ quê hương Bình Định, nhóm thơ Bàn thành tứ hữu. Từ cuộc đời và sự nghiệp thi ca âm vang của họ, Mai Thìn muốn dựng chân dung bằng thơ về họ để người đọc cùng đồng cảm tiếp nhận và tôn vinh những người đã góp phần làm rạng rỡ “đất võ trời văn” một thời và mãi mãi. Với nhà thơ tài danh quá ngưỡng Hàn Mặc Tử, Mai Thìn dùng nghệ thuật gián cách và chấm phá để hiện hữu một thi nhân mà hồn thơ đã nhập vào trăng, vào thiên thu vĩnh cửu:

                              Nhón một nhúm thơ thả xuống Đầm Thị Nại

                              Hàn Mặc Tử không chờ ai

                              liểng xiểng bước lên đồi Ghềnh Ráng

                              nhập vào trăng

                              làm thiên thu...

                                                            (Hàn Mặc Tử)

Với Quách Tấn, chỉ lấy tên tác phẩm của ông để chứng thực cho con người và phẩm chất thi ca của ông. Đó là nghệ thuật liên văn bản mà Mai Thìn muốn đi đường tắt để chuyển tải thông điệp đến bạn đọc, không cần phải diễn giải thêm nhiều:

                              Ông là “mùa cổ điển”

                              ở “xứ Trầm Hương”

                              tâm vọng “nước non Bình Định”

                              vì trời không có mắt

                              chữ ông sáng trong tim.

                                                            (Quách Tấn)

 Còn với tác giả bài thơ Bến My Lăng, Mai Thìn lại thức nhận Yến Lan từ góc nhìn địa văn hóa giản yếu mà ở đó vầng trăng Bình Định là hình tượng ám ảnh nhất đối với Yến Lan từ tuổi ấu thơ cho đến tuổi về già. Yến Lan yêu trăng, say trăng, nợ trăng cho đến trắng cuộc đời. Bài thơ ngắn mà mở ra rộng lớn khoảng trống của vô thức sáng tạo và vô thức tiếp nhận về đời và thơ Yến Lan mà các thế hệ người đọc hậu thế phải tiếp tục làm đầy nghĩa:

                              “Lọt lòng ra giữa bãi trăng”

                              ngày về ông cũng chọn một đêm trăng

 

                              tháng tám trời trong mây lướt thướt

                              mấy chục năm ròng

                              đã tới chưa.

                                                                      (Yến Lan)

 


Người cuối cùng của Bàn thành tứ hữu là Chế Lan Viên được Mai Thìn trân trọng ngợi ca như là “thi ca chi bảo” từ thuở Điêu tàn đến Di cảo thơ. Chế Lan Viên đã sống và tồn tại như chính đời ông. Sống và viết và tư duy, sáng tạo, nguyện làm người làm vườn thi ca vĩnh cửu và làm chim báo bão vượt trùng dương để chắt nên tinh huyết cho thơ, tinh túy cho đời:

 

                              Bắt đầu từ “điêu tàn”

                              ông tỏa “ánh sáng và phù sa”

                              rồi làm “chim báo bão’

 

                              thơ ông cuối đời như máu

                              lọc

                              tự nhân gian.

                                              (Chế Lan Viên)

Mai Thìn còn mở rộng đường biên tiếp nhận để ngưỡng mộ, ngợi ca tài năng và bóng rợp nghệ thuật của người nghệ sĩ, đặc biệt là những nghệ sĩ lớn. Hình ảnh cái bóng của họ ngồi bất động trước dòng thời gian và âm thanh chảy tràn trên sự sống thật của chính cuộc sống và cuộc đời họ là ảnh tượng tâm linh và ẩn dụ mang nghĩa ám gợi:

                              Ngày nào ông cũng ngồi ở cái bàn ấy

                              lách cách gõ bóng mình

                              lên thời gian miên chảy
 

                              lắng trong dòng đời

                              bài hát buồn

                              và đẹp
 

                              rồi tháng ngày

                              ông không ngồi đó nữa

                              cái bàn đã có người khác rồi

                              khói thuốc lá bây giờ không còn là khói của người xưa

                              bóng ông đọng trên tường thành vũng
 

                              mênh mang

                              thời gian không buồn chảy.

                                                                      (Thời gian không buồn chảy)

Còn với Thái Thanh, giọng ca liêu trai, bất hủ đã hốt hồn chàng thi sĩ đa tình, khiến anh trở thành kẻ bạo hành nhốt tiếng hát của bà trong ngục tối trái tim mình để được sở hữu và thỏa lòng si cảm: “Tôi đã từng nhốt tiếng hát của bà/ một mình tỉ têmột mình mơn trớn/ những xoãi/ rơi/ loang chảy/ từ lâu chỉ một tôi nghe/ thấy// tôi si tình/ hay tình si tôi/ hay tôi si bà/ tiếng hát xanh/ lơi// những hỏi những ngã/ trả lại em yêu cơn mê chiều/ ngày xưa Hoàng thị/ ngút ngát chân mây”. Sự tự thú của Mai Thìn khiến anh càng trở nên giàu có, tin yêu:

                              tôi đã từng nhốt tiếng hát của bà

                              trong ký ức

                              trong nguôi quên

                              dẫu khi

                              không còn nữa.

                                                            (Thái Thanh)

          Ký ức tiếng ca xanh Thái Thanh luôn thường trực trong cõi nhớ, cõi quên và cả cõi khác của Mai Thìn.

                                                                      ***

Trở lên chỉ là cảm nhận của tôi về hình tượng và tiêu điểm thẩm mỹ chính của tập thơ. Còn nhiều yếu tố thi pháp cần đồng cảm và chia sẻ, ví như vấn đề ngôn từ, giọng điệu, biểu tượng, thể thơ, cấu trúc câu thơ... mà trong bài viết ngắn này, chúng tôi chưa thể phân tích, minh chứng. Nhưng thiết nghĩ, như thế cũng đủ để chúng ta yêu quí và đồng cảm một hồn thơ. Khép lại Tiếng chim về cũ, thấy xao động, réo rắt, đông vui tình người, tình thơ trong khát vọng của chủ thể sáng tạo“mê mải nặn trái tim mình/ bằng chữ” để “vẽ nên gương mặt của nhà thơ”. Mai Thìn đã thực sự làm người đồng hiện bóng quá khứ gần và quá khứ xa trong tâm thế giao tiếp và đối thoại nhân văn của con người hiện tại. Qua đó, anh muốn khẳng định những giá trị hằng cửu của cuộc sống và hiện sinh đời người bằng tiếng nói thi ca. Đọc thơ Mai Thìn nghe đâu đây tiếng chim nơi vườn mẹ ngày xưa đang về vui ríu rít.

 

Vỹ Dạ, 8/ 2021

H.T.H

 ----

* Tên các tập thơ của Mai Thìn


Có thể bạn quan tâm