Đó là mạch thơ từ Xóm không chồng của Ngô Quang Hưng, Nhà không có bố của Nguyễn Thị Mai, Phố bà của Lê Va, và Những người trồng rừng một mình của Nguyễn Tấn Việt… Một mạch thơ, một mạch đời mà chính xác là từ một mạch đời tới một mạch thơ. Đây là một phần lịch sử của dân tộc Việt Nam được xuất hiện bằng thơ tại tỉnh Hoà Bình, do các tác giả khi viết nên những bài thơ trong mạch thơ này đều đang công tác tại tỉnh Hoà Bình. Từng bài thơ ra đời là cảm xúc của từng người, không ai bảo ai, không ai hẹn ai. Và khi nó ra đời rồi còn trải qua thời gian dài mới được hệ thống lại thành một mạch thơ.
Vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã vào giai đoạn cuối. Khi đó, hàng ngàn nữ thanh niên xung phong từ những cung đường Trường Sơn khói lửa được chuyển về các nông trường quốc doanh. Xuân thì của chị em đã gửi lại các cung đường, tuổi của chị em đã “nhỡ”. Thời đó, để một người phụ nữ làm mẹ đơn thân quả là quá khó khăn bởi sự mặc cảm của xã hội. Tuy thế, vẫn có một số chị em lúc này đã là công nhân nông trường vượt sự mặc cảm đó để giành quyền làm mẹ. Khi chưa làm mẹ họ còn ở chung khu lán tập thể. Khi đã làm mẹ đơn thân, họ rủ nhau vào sâu hơn trong các khe núi để cùng ở với nhau… Nhà thơ Ngô Quang Hưng khi đó đang là thầy giáo trẻ dạy học tại tỉnh Hoà Bình và bằng thực tế sinh động tại Nông trường Sông Bôi, ông đã viết bài thơ đầu tiên:
Xóm không chồng
Nông trường chè riêng một xóm các cô
Không có dáng con trai trùm lên mỗi căn nhà
Chè được lứa người thì nhỡ tuổi
Không lấy được chồng ai cũng khát được có con
Xóm trồng chè thiếu cánh tay đàn ông
Lợp chẳng kín chái nhà
Giếng đào không tới nước
Thảng một tiếng tắc kè chẵn lẻ
Tay hái chè đời chát cắn vào môi
Thèm một nửa mặt trời
Khát một nửa vầng trăng
Vào bữa tối thèm so đôi đữa lệch
Bao khuya khoắt không nhà nào chợp mắt
Nghiến răng cùng tiếng mọt cứa ngang đêm
Thèm một lần được xưng một tiếng em
Dù vụng trộm trong một lần vụng dại
Không làm vợ ngửa tay xin làm mẹ
Nước mắt rơi về phía nụ cười
Những đứa trẻ sinh ra chỉ có mẹ thôi
Lớp vẫn mở cho đàn con không bố
Tiếng cười vỡ buổi chiều tuổi nhỏ
Dứt tiếng trống trường cô giáo cũng cô đơn
Có còn ai rơi vào xóm này không
Bao người mẹ còn làm dâu trong điều ước
Sóng lơi lẻ rơi vào tim tê buốt
Gió lang thang thổi rỗng xóm không chồng
Giá có được một vành tang còn đỡ tủi
Hay một lần hoá đá nỗi chờ trông
Xin san lấp hố sâu mặc cảm
Cho đời không còn để tiếng xóm không chồng
Chè ai hái tuổi xuân mình trong đó
Mỗi búp chè sẻ nửa niềm riêng.
Và rồi một số năm sau, khi đang là cô giáo dạy tại Trường Sư phạm tỉnh Hoà Bình, với tâm thức của một người mẹ làm thơ, nhà thơ Nguyễn Thị Mai viết:
Nhà không có bố
Nhà không có bố buồn sao
Cái kim cũng thiếu con dao thì cùn
Bơm xe chẳng hiểu cái giun
Rát tay bật lửa đá cùn xăng khô
Không có bố chẳng thì giờ
Bữa cơm chẳng đợi chẳng chờ chẳng mâm
Ngày đông giá rét mưa dầm
Dậy che mái dột âm thầm mẹ con
Chẳng vui tiếng điếu rít giòn
Bia không mua uống em còn bán chai
Nước đun sôi để nguội hoài
Nhà không có bố lấy ai pha trà
Dù cho bãi mật phù sa
Mà không bên lở chẳng là dòng sông.
Khi Xóm không chồng của Ngô Quang Hưng và Nhà không có bố của Nguyễn Thị Mai ra đời, tôi (Lê Va) đang công tác tại huyện miền núi cao Đà Bắc và hoàn toàn không biết về hai bài thơ này. Năm 1993, tôi được chuyển công tác từ Đà Bắc về thị xã và mon men đến “làng thơ” Hoà Bình rồi dần dần tôi mới được nghe tới chúng, nhưng cũng không phải nghe đến, biết đến chúng cùng lúc. Khi nhà thơ Ngô Quang Hưng đã là Phó Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao & Du lịch tỉnh Hoà Bình, nhà thơ Nguyễn Thị Mai đã chuyển công tác về Hà Nội lâu rồi, trong tôi mới chợt nghĩ, nếu dừng lại ở Nhà không có bố và Xóm không chồng thì chỉ thấy đau và những người viết sẽ có lỗi. Thời gian qua đi, vết thương nên da cũng như xã hội phát triển… và tôi đã viết tiếp:
Phố bà
Theo vần thơ về nông trường thăm lại
Xóm không chồng giờ đã phố đông
Vàng vào chậu nở đầy xóm rỗng
Chẵn lẻ đua chen thơm bí thơm bầu
Lúc nhá nhem ngửa tay xin làm mẹ
Nội ngoại rồi bà bạch nhật thanh thiên
Nụ rạng rỡ giọt tươi còn ngấn
Những nếp nhăn giữ giọt lệ khỏi lăn
Chia đất nhận chè bàn nóng phố
Trường mầm non xanh mượt bãi ngô
Chè cuối vụ nếu sợ đau không đốn
Thì mùa sau đâu tán rộng búp đầy
Kịch ti vi bà cháu tâm sự
Truyện đêm khuya mai bà kể cháu nghe
Hội cao tuổi toàn cụ bà sinh hoạt
Dù vắng tiếng điếu cày vẫn rộn rã trầu cau
Nước sông Bôi mát trong man mác
Chè nông trường chát trước ngọt sau
Pha nước mời người chè đủ ngấm
Ấm tình bà con cháu đôi nối đôi.
Thế rồi trong một lần nhà thơ Nguyễn Tấn Việt cùng nhà văn Phạm Huy Định điền dã tại huyện Đà Bắc. Từng làm Phó Giám đốc Lâm trường Đoàn Kết đóng trên địa bàn các xã Đoàn Kết, Trung Thành, Yên Hoà của huyện Đà Bắc, nhà văn Phạm Huy Định nắm chắc địa danh và chỉ cho Nguyễn Tấn Việt một xóm thuộc địa phận xã Tân Minh, nơi có một số phụ nữ không chồng ở và trồng rừng. Sau về, nhà thơ Nguyễn Tấn Việt thốt lên: Ối trời ơi! Phạm Huy Định chỉ cho tôi một mỏ vàng!. Và Nguyễn Tấn Việt cho ra đời bài thơ thứ tư của mạch thơ này:
Những người
trồng rừng một mình
Những ngọn đồi đã không xanh một mình
Những cánh rừng họp mây chiều mây sớm
Làng trồng rừng mưa xanh áo trắng
Bâng khuâng mùa ngâu hoa lá gây rừng
Quên làm sao hạn hán buổi khai sơn
Mắt cây nảy mầm trong giấc mơ làm mẹ
Giọt lệ nắng ngọt qua giọt sữa
Qua đêm đồi mầu lá hoá sương mai
Quên làm sao lũ cạn quét qua đời
Trồng cây ngoài rừng nuôi con ngoài giá thú
Cây và con không phải là thú dữ
Bao mầm xanh xóm sạch hiện hình
Niềm vui hoài thai hoang hoá nỗi buồn
Dù cây dại và đứa con còn đỏ
Chang chang nắng bao nhiêu là bóng lẻ
Bao nhiêu là sum họp phía người dưng
Tiếng gà cồ bắc cầu lòng thung
Chim chuyền nắng tha chiều về xây tổ
Rừng đã suối giữ chân hòn sỏi cũ
Đồi đã làng trăng xuống trẻ con chơi
Những cao xanh tròn tán những mảnh đời
Cặp con đỏ đã nàng dâu chàng rể
Làng cô phụ đã mẹ chồng mẹ vợ
Những muối tiêu sương trắng đã nên bà
Những người trồng rừng mai một đi xa
Cô đơn cũ sót lại vài mảnh nắng
Hồn đàn bà sẽ nhập vào mây trắng
Cánh rừng xanh xanh mãi hoá chân trời.
Và như thế từ Xóm không chồng của Ngô Quang Hưng, Nhà không có bố của Nguyễn Thị Mai, Phố bà của Lê Va đã được Nguyễn Tấn Việt khép lại bằng Những người trồng rừng một mình. Nguyễn Tấn Việt khép lại một mạch thơ, nhưng chính là mở ra một mạch cảm xúc mới. Những người phụ nữ trải qua mất mát hy sinh cá nhân mình, vượt nên biết bao khó khăn, mặc cảm, góp phần cùng toàn dân tộc làm nên hoà bình, độc lập dân tộc và tiếp tục xây dựng đất nước. Đó là màu xanh xanh nhất, và không chỉ xanh một mình.
Hẳn sẽ rất thú vị khi lần đầu tiên bốn tác giả Ngô Quang Hưng, Nguyễn Thị Mai, Lê Va và Nguyễn Tấn Việt cùng có mặt, cùng đọc thơ, cùng giao lưu với mọi người về thơ nhất là mạch thơ mà họ đã viết ra tại đất Mường Hoà Bình.
Nguồn Văn nghệ số 28/2020