April 24, 2024, 9:34 pm

Chuyện ít biết về nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng Trần Đình Long

Năm 2020 này kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám 1945; dân chúng Hà Nội dần mới biết các nhân vật trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội thời đó: Chủ tịch Nguyễn Khang cùng các đồng chí Nguyễn Duy Thân, Trần Quang Huy, Lê Trọng Nghĩa và Nguyễn Quyết1. Riêng Trần Đình Long, ông cố vấn cho Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội thì còn ít người biết.

 

Đại học Phương Đông và cuộc đời làm báo

Báo Tin tức 1938

Tháng 8/2005, tôi nhận nhiệm vụ tháp tùng cụ Lê Trọng Nghĩa (khi ấy đã 83 tuổi) từ Tp. Hồ Chí Minh ra Hà Nội tham gia cầu truyền hình “60 năm Cách mạng tháng Tám - Những thông điệp từ quá khứ”. Nhờ dịp may ấy mới biết chị Phong (con cả cụ Trần Đình Long) đang sống tại Tp. Hồ Chí Minh. Gặp chị, được nghe: “Bố tôi sinh ngày 1/3/1904 tại làng Đồng Dụ, xã Tiến Thắng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Gia đình có xưởng sản xuất đồ gỗ tại phố Hàng Mâm, Nam Định. Học xong Thành chung, ông vào làm thư ký tại Nhà máy Dệt Nam Định. Anh trai Trần Đình Lượng có hiệu ảnh ở Phnôm-pênh nên năm 1925, ông sang đó hành nghề và được giác ngộ….

Tháng 6/1926, Trần Đình Long trở về Mỹ Tho, tham gia tuyên truyền cách mạng rồi tháng 11/1926, được bác Lượng lo tiền cho sang Paris học đại học. Tại đây, ông tham gia phong trào công nhân của Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1928, ông được giới thiệu sang học tại Đại học Phương Đông Matxcơva...”.

Trần Đình Long (tên tiếng Nga là Pe-vơ-nê-er) học khóa 1928-1931 cùng khoa với 9 sinh viên người Việt với số thẻ học viên 4433. Tốt nghiệp, ông trở về Pháp rồi lên tầu về nước. Vừa cập cảng Sài Gòn, ông bị mật thám Pháp bắt, sau đó bị giải về Bắc kỳ giam 4 tháng với tội “vượt biên trái phép sang Nga”. Vì không có chứng cứ, ông được trả tự do. Trở lại Hà Nội, ông bắt liên lạc với Đảng.

Thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thế Rục, Đặng Xuân Khu, Đặng Thai Mai, Vân Đình, Hải Triều... ông tham gia hoạt động báo chí công khai của Xứ ủy Bắc kỳ. Ông viết bài cho các báo Le travail (Lao động), Ressemblement! (Tập hợp), En avant (Tiến lên), Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Tin tức, Đời nay, làm chủ nhiệm báo Khỏe (chưa ra được số nào thì đã bị cấm), quản lý báo Thời Thế đến tháng 2/1938 thì lại bị cấm tiếp.

Ngoài hoạt động cách mạng, Trần Đình Long còn viết nhiều tác phẩm báo chí, phóng sự, ký sự, truyện ngắn cùng một số bài hát và một số vở kịch (khi bị tù ở Sơn La). Ông có thiên ký sự Ba năm ở nước Nga Xô-viết giới thiệu về cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân Liên Xô; phóng sự dài kỳ Một cuộc điều tra muối nói lên nỗi khổ của người dân làm muối vùng biển Văn Lý, Hải Hậu và truyện ngắn Một đêm u ám phản ánh tâm trạng người trí thức trẻ được giác ngộ, bước vào con đường hoạt động cách mạng, bị kẻ địch giam cầm, tra tấn nhưng vẫn vững tâm tiếp tục lý tưởng đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Tháng 8/1939, ông bị chính quyền bắt lần hai vì tội “đi cổ động nhân dân chống thuế”, khi vào Thanh Hóa phát hành báo. Giam giữ một thời gian, ông lại được trả tự do. Năm 1940, chính quyền Pháp bắt Trần Đình Long lần thứ ba vì tội danh “cộng tác với báo chí cộng sản và cổ động dân chúng chống Chính phủ bảo hộ”. Ông bị đày lên nhà tù Sơn La, cùng với Trần Huy Liệu, Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng, Xuân Thủy, Xích Điểu... Thời gian ở tù, ông sáng tác nhiều tác phẩm kịch nói, cải lương, tuồng chèo và cùng Xích Điểu lập “Gánh hát phiêu lưu” của tù chính trị. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, chi uỷ ngục Sơn La đấu tranh với giám ngục Pháp đòi giải phóng. Về đến Hà Nội, Trần Đình Long bắt liên lạc được với Xứ uỷ Bắc kỳ.

Chuyện tình bản Hẹo…

Trần Đình Long kết hôn với cô gái Hà Nội tên Phương. Hai vợ chồng thuê lại cửa hàng ở 26 phố chợ Đồng Xuân, kinh doanh sách báo tiến bộ nước ngoài. Chị Phong nhớ lại: “Bố mẹ tôi cưới nhau năm 1938. Vì bố tôi tên Long, còn mẹ tên Phương nên khi có mang tôi, 2 cụ thống nhất: sinh con đầu lòng sẽ đặt tên bằng cách chơi chữ lồng ngược: lấy chữ cái đầu tên mẹ ghép với đuôi tên cha. Vậy là tôi có tên Phong. Hai cụ sống rất lãng mạn.

Thời gian ông bị giam ở Sơn La, mẹ tôi khăn gói lên thăm. Bà mang theo cả muối, đường, vải, thuốc Tây… biếu bạn tù và bà con dân tộc. Sáng sáng, anh em tù chính trị phải lên rừng kiếm củi. Thương đồng chí mình, anh em đã nhờ bà con ở bản Hẹo làm cho ông cái lều sát đường. Vì thế ông bà có “túp lều hạnh phúc”. Anh em mỗi người rấn thêm chút, kiếm thêm suất củi của ông. Chiều xuống, ông Long lại nhập đoàn tù cùng những bó củi trở về nhà lao.

Sau khi trở về nhà, bà bắn tin lên: đã có mang! Rồi 9 tháng sau, ông nhận được thư báo: sinh con trai! Anh em tù chính trị Sơn La biết tin thì mừng lắm, bàn với ông, đặt tên cháu là “cậu ấm Hẹo”, ghi nhớ địa danh nơi ông bà có cậu con trai! Còn theo quy ước, đứa con thứ sẽ lấy chữ cái đầu tên ông ghép với phần đuôi tên bà; vậy là thêm cu Lương”.

Những ngày Tổng Khởi nghĩa

Đầu tháng 8/1945, Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ Nguyễn Văn Trân cùng Thường vụ Trần Quốc Hoàn lên Tân Trào dự Hội nghị Trung ương mở rộng và Quốc dân đại hội, đã bàn giao lại cho 2 Thường vụ Xứ: Nguyễn Khang phụ trách Hà Nội, Trần Tử Bình trực cơ quan Xứ ủy ở Vạn Phúc (Hà Đông) và phụ trách 10 tỉnh đồng bằng Bắc bộ.

Về đến Hà Nội, ông Long tìm ngay Nguyễn Khang, bạn tù Sơn La (vượt ngục Sơn La từ 1944). Biết ông Long có trình độ lý luận, từng học Đại học Phương Đông, từng bôn ba hải ngoại, nắm được kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 nên ông Khang có ý tưởng tiến cử ông Long vào Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội.

Chiều 15/8/1945, Hội nghị Xứ ủy tiến hành tại Vạn Phúc. Qua radio biết tin Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, 2 Thường vụ Xứ ủy quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội gồm 5 người, do Nguyễn Khang là chủ tịch và Trần Đình Long là cố vấn.

… Năm 2014, tìm gặp ông Lê Trọng Nghĩa, Ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội. Đã 93 tuổi nhưng ông vẫn sôi nổi kể lại chuyện 70 năm trước như đang trong cuộc: “Hầu hết anh em trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội đều là học sinh, sinh viên, tuổi đời mới ngoài 20. Riêng anh Trần Tử Bình đã 38 và anh Trần Đình Long 41, già dặn và từng trải hơn. Anh Bình là Thường vụ Xứ, luôn theo sát tình hình Hà Nội; còn anh Long từng học đại học cộng sản ở Nga nên có đầy đủ tri thức làm cố vấn…

Khi Khâm sai đại thần Phan Kế Toại bắn tin muốn gặp Việt Minh. Ngay hôm 16/8, anh Khang cùng tôi và anh Long vào gặp cụ để thương thuyết, bàn giao chính quyền cho Việt Minh. Cuộc họp bất thành nhưng ngay hôm sau 17/8, được tin cụ đã bỏ ấn từ quan.

Đêm 17/8, dù chưa nhận được lệnh của Trung ương nhưng nắm chắc chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, thấy thời cơ đã chín lắm rồi nên Thường vụ quyết định cho Hà Nội khởi nghĩa vào trưa ngày 19/8. Ngày 18/8, Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội chuyển hẳn vào 101 Gambetta (biệt thự của gia đình cụ Hoàng Trọng Phu – nguyên Tổng đốc Hà Đông, nay là 101 Trần Hưng Đạo). Trong các cuộc họp, anh Long luôn đưa ra những ý kiến sắc bén để đối phó với các tình huống…”.

Trưa 19/8, sau khi cướp được Phủ Khâm sai, Bộ chỉ huy tối cao Việt Minh nhận được tin do ông Nguyễn Quyết báo về: có đụng độ ở Trại Bảo an binh (trên đường Hàng Bài, đối diện với rạp phim Majestic). Nhật cho lính và xe tăng ra bao vây Trại mà bên trong cánh tự vệ Việt Minh Hoàng Diệu đã làm chủ một kho vũ khí lớn hàng nghìn khẩu súng; dễ dẫn tới đổ máu. Ông Nghĩa được giao nhiệm vụ đi xe Limousine cắm cờ đỏ sao vàng ra thương lượng. Sau khi thương thảo, chỉ huy Nhật đồng ý lui quân nhưng yêu cầu “phe nổi loạn” phải cử đại diện đến gặp chỉ huy tối cao của họ. Chiều tối 19/8, Thường vụ Xứ giao nhiệm vụ cho Lê Trọng Nghĩa và ông Trần Đình Long vào gặp Tsuchihashi, Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật. Trước khi đi, với kinh nghiệm của mình ông Long dặn: “Khi vào hang cọp, không được nói năng động chạm đến việc Phát xít Nhật đã bại trận hay Mỹ đã thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki…”. Vào bên trong phòng khánh tiết, thấy trên tường có treo lá cờ trắng với hình mặt trời đỏ to tướng; sĩ quan Nhật đứng vòng quanh, gươm súng đầy mình, dù đã thua trận nhưng mặt ai cũng đằng đằng khí thế “võ sĩ đạo”, làm 2 anh em có chút lo âu, nhất là “vào hang hùm không mảnh sắt trên tay”. Được giới thiệu là đại diện của “nhóm dân chúng nổi loạn Hà Nội chiếm Dinh Khâm sai trưa nay”, ông Nghĩa bình tĩnh, nói: “Nghe tin Thiên hoàng đã cho phép các ông rút lực lượng của mình khỏi Đông Dương trong ít ngày nữa…”. Vừa nghe đến 2 chữ “Thiên hoàng”, thấy thái độ của cánh sĩ quan thay đổi hẳn. Sau đó, họ “chấp nhận chính quyền mới” của Việt Minh và nhắc: không được để dân chúng bạo loạn…

Đêm ấy trở về, 2 ông biết được danh sách Ủy ban Nhân dân lâm thời Bắc bộ và Hà Nội đã được thông qua và sáng mai ra mắt quốc dân đồng bào tại vườn hoa Con Cóc trước Bắc bộ Phủ (cái tên mới sau ngày 19/8/1945).

Sau ngày cách mạng thành công

Trần Đình Long được giao nhiệm vụ “đặc phái viên ngoại giao” cho Hồ Chủ tịch cùng Bùi Lâm, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Đức Thụy. Cuối tháng 11/1945, ông cùng đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng xuống Kiến An giải quyết tranh chấp giữa lực lượng của họ với anh em Vệ quốc đoàn. Trần Đình Long đã giải quyết một cách rất khôn khéo, dựa vào sách lược của Đảng, tránh được xung đột vũ trang.

Chị Phong kể tiếp: “Bố tôi rất yêu thương vợ con. Cứ xong công việc là ông về nhà vui đùa với con cái. Ngoài tôi và em Lương, mẹ tôi lúc này đang có bầu em Thiện. Trưa ngày 20/10/1946, khi bố tôi trở về nhà và lên gác được một lúc thì thấy có chiếc xe Jeep chạy ào tới. Từ trên xe nhảy xuống 5-6 người, mặc binh phục Tàu Tưởng. Họ dí súng vào bụng mẹ tôi, dọa: “Gọi ông Long xuống đây, nếu không sẽ bắn!”. Thương em đang trong bụng, mẹ tôi buộc phải gọi bố xuống. Từ trên gác xuống chưa kịp phản ứng, chúng xông đến bẻ quặt tay ông, giải ra xe. Mẹ tôi ngất đi. Ngay sau đó báo chí tiến bộ kêu gọi Việt Nam Quốc dân Đảng trả lại tự do cho ông, nhưng vô hiệu”.

Ông Nguyễn Văn Phúc, Ủy viên tuyên truyền UBND tỉnh Yên Bái, cũng bị bắt cóc. Vợ ông Phúc đến gặp Nguyễn Hải Thần và được ông ta đưa đến gặp Vũ Hồng Khanh để xin thả chồng mình. Vũ Hồng Khanh từ chối và lỡ buột miệng: “Ngay đến ông Long gần đây tôi còn chưa cho thả nữa là…”. Trần Đình Long mất tích từ ngày đó.

Trăn trở!

Năm 1952, bà Phương đưa 3 con vào Đà Nẵng rồi sang Campuchia, nơi có gia đình ông Trần Đình Lượng. Sống ở đó 2 năm, tới 1954 thì cả nhà về Sài Gòn. Bà Phương mất ở Sài Gòn. Rồi 20 năm sau, 2 anh Trần Đình Lương, Trần Đình Thiện sang định cư ở Úc; riêng chị Phong vẫn sinh sống tại Việt Nam. Ông Lê Trọng Nghĩa luôn tâm đắc: “Kỷ niệm Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội sống mãi trong tôi, làm tôi luôn nhớ đến một Trần Đình Long đầy bản lĩnh, sáng suốt, luôn dựa vào tình hình thực tế để đưa ra những quyết sách đúng đắn trên cương vị của một cố vấn”. Còn nhà sử học Nga A.Xôcôlốp từng đánh giá: “Trần Đình Long được xem là ứng cử viên Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Hồ Chí Minh 1946”.

75 năm nay, gia đình vẫn canh cánh nỗi đau chưa biết ông an nghỉ nơi đâu?! Thậm chí ông chưa hề có một tấm huân chương. Đó là nghĩa vụ của người đang còn sống…

__________

  1. Đại tướng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Người duy nhất trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội còn sống đến ngày hôm nay.

Nguồn Văn nghệ số 13/2020


Có thể bạn quan tâm