April 25, 2024, 8:12 am

Chuyện hai cựu binh xứ Quảng

Đó là hai cựu binh từng tham gia bộ đội thời kháng chiến chống thực dân Pháp, tuổi ngoài tám mươi, là đồng hương, đồng chí, đồng đội lại cùng có duyên gắn bó với Bác Hồ. Một người tham gia xây dựng vườn hoa Lăng Bác Hồ - kỹ sư Phạm Minh Thông,  hội viên Hội Nhà văn Đà Nẵng, quê ở đất địa linh nhân kiệt Điện Bàn, Quảng Nam; và một vị từng làm trợ lý tuyên huấn Cục Hậu cần Quân khu 5, khi về hưu đã dùng toàn bộ tiền hưu, tiền dành dụm, chắt bóp của hai vợ chồng phát tâm xây dựng khu nhà lưu niệm thờ Bác Hồ trên đất Bắc Trà My, căn cứ địa Khu ủy 5 thời chống Mỹ cứu nước - thiếu tá Võ Như Thông, cùng quê hương Điện Bàn.

Võ Như Thông quê ở xã vùng cát Điện Nam, quê hương của các anh hùng lực lượng vũ trang vang danh thời Bảy dũng sĩ Điện Ngọc, như Võ Như Hưng, Lê Tấn Viễn, Nguyễn Văn Rìu… Đây cũng là vùng đất nổi tiếng có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhiều anh hùng liệt sĩ, nhiều tướng lĩnh nhất nước (8 tướng Quân đội, Công an trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ). Còn Phạm Minh Thông quê xã Điện Minh, là hậu duệ của Thượng tướng quân Phạm Tu, là chị em đồng chí với Anh hùng lực lượng vũ trang, Bà mẹ Việt nam anh hùng Nguyễn Thị Cận

 

Hai Cựu chiến binh Phạm Minh Thông (phải) và Võ Như Thông trao tặng sách quý về Bác Hồ cho nhau

 

Hai nhân vật đặc biệt ở tuổi gần đất xa trời này cùng tên Thông, cùng quê, cùng Đại đội 64 Huyện Điện Bàn cùng đánh Pháp nhiều trận, ấy thế mà hơn nửa thế kỷ qua, gần hết đời người mới gặp nhau, không phải ở quê Điện Bàn, mà tại huyện miền núi Bắc Trà My, nơi đồng bào các dân tộc Cor, Ca Dong, Xê Đăng, Mơ Nông phần lớn mang họ Bác Hồ, chung sống. Và tôi do xem trên truyền hình Trung ương, trên báo Quảng Nam, báo Đà Nẵng, biết chuyện cụ Thông Võ xây khu nhà thờ Bác Hồ và cụ Thông Phạm tham gia xây vườn hoa Lăng Bác Hồ mà tự nhận bổn phận kết nối.

Trưa nắng đầu tháng Năm, tôi cùng phóng viên Lê Ngọc Khoa đưa nhà văn, kỹ sư Phạm Minh Thông về thăm Nhà thờ Bác Hồ của cụ Võ Như Thông tại thị trấn huyện lỵ Bắc Trà My, số nhà 14 đường mang tên Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Chính ủy, kiêm Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5. Không gian nơi đây thật thiêng liêng, ấm áp. Trước nhà là tượng Bác Hồ đứng, bằng đá Non Nước, cao 1,7 mét, tay trái cầm cuốn sách, tay phải giơ cao thân ái chào mọi người, gương mặt nhân từ phúc hậu; sân vườn trồng các loại cây ăn quả và ao cá chép bơi lội tung tăng. Trước cổng nhà có bốn cây trụ bằng đá trắng tạc câu đối: Lo vì Dân, nghĩ vì Dân, vui khổ cũng vì Dân, dốc chí thờ Dân, công Bác với Dân thiên thu bất tận. Vế kia: Bố gọi Bác, con gọi Bác, cháu chắt lại gọi Bác, nối dòng theo Bác, lòng Dân mong Bác vạn thọ vô cương.

Qua khỏi cổng vào bên trong là phòng lưu niệm Bác Hồ với Quảng Nam, Quảng Nam với Bác Hồ, có bức tượng Bác Hồ dưới đế chiếc hòm gỗ phủ vải đỏ bọc hai nắm đất ở quê nội, quê ngoại của Bác. Gian trưng bày còn có hàng trăm đầu sách, tranh ảnh, tư liệu về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ.

Ngoài gian thờ Bác Hồ, còn có đền thờ Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương, chí sĩ yêu nước, thủ lĩnh phong trào Nghĩa hội, Cần Vương Quảng Nam Nguyễn Duy Hiệu, gian thờ chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, Quyền Chủ tịch Nước Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ cách mạng như Nguyễn Thị Minh Khai, Anh hùng lực lượng vũ trang Trần Thị Lý (Người con gái Việt Nam - Tố Hữu)…

Cụ Thông Phạm xúc động tặng cụ Thông Võ cuốn sách của mình Tấm lòng người thợ xây lăng Bác Hồ và tấm bằng giải C của Ban chỉ đạo giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trao cho cụ, và cụ Thông Võ tặng lại cụ Thông Phạm cuốn sách (phô-tô): Những bài báo viết về tấm lòng đồng bào Trà My với Bác Hồ, do Hoàng Tùng sưu tầm, ca ngợi  thành quả, công đức của cụ Thông Võ xây dựng Nhà tưởng niệm Bác Hồ. Hai cụ ôm nhau vỗ vai, vỗ lưng đồm độp với chất giọng Quảng Nam oang oang cả nhà: “Đồng đội, đồng hương ơi, răng (sao) anh với tui không gặp nhau sớm hơn hỉ. Thôi, chừ mới được Bác Hồ linh thiêng cho bọn mình gặp nhau cú chót cuối đời cũng vui lắm rồi. Rứa hỉ!”.

Rồi hai cụ quấn quýt, chuyện nổ như bắp rang, không dứt ra được. Chuyện quê hương, đồng đội và chuyện mình đánh nhau. Thỉnh thoảng, tôi phải khéo léo cắt ngang để câu chuyện của hai cụ đúng vào trọng tâm: gắn với xây vườn hoa Lăng Bác Hồ và xây khu nhà thờ Bác Hồ.

Cụ Thông Võ tâm sự: Để tỏ lòng kính yêu và nhớ thương Bác Hồ, một vị lãnh tụ của đất nước, dân tộc, cả đời không bợn chút riêng tư, cồng hiến hy sinh cho nước, cho dân, đặc biệt cho nhân dân miền Nam, một vị Cha già thân yêu của các lực lượng vũ trang; thật tình tôi đã dành hết tâm trí khi về hưu đến nay để xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện Nhà thờ Bác Hồ. Hằng năm vào ngày 2/9, tôi và vợ con đều thành kính làm giỗ Bác, được nhiều bà con đồng bào các dân tộc Trà My đến dâng hương tưởng nhớ và nghe tôi kể chuyện ba lần được gặp Bác Hồ và tấm gương trong sáng về đạo đức Bác Hồ, về Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Nam….

Cụ Thông Phạm tiếp lời: “Kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, tôi tập kết ra Bắc năm 1955, được đơn vị bộ đội tạo điều kiện ăn học, ôn tập thi đỗ vào Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1962. Trong đời mình, tôi vinh dự được hai lần gặp Bác Hồ. Lần đầu vào tháng 12 năm 1961, Bác về thăm Sư đoàn 324 tại rú Đụn, Nam Đàn, Nghệ An, khi tôi là chuẩn úy, y tá, được mang súng (đã tháo lê, tháo đạn) mang quân phục nghiêm chỉnh đón Bác.  Là người chiến sĩ được nhân dân vinh danh bộ đội Cụ Hồ đón Bác Hồ là một vinh đự lớn lao trong đời mình và đồng đội. Lần hai, tháng  3 năm 1962, Bác Hồ về thăm Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, tôi là một trong 250 người được lựa chọn đón Bác...

Tự hào được gặp Bác Hồ và quyết noi gương Bác Hồ trong chiến đấu, trong sự kiện 12 ngày đêm năm 1972, giặc Mỹ ném bom miền Bắc, tôi với tư cách Trung đội trưởng tự vệ Xí nghiệp bê tông Vĩnh Tuy Hà Nội đã chỉ huy đơn vị bắn rơi một máy bay không người lái của giặc Mỹ, được Bộ Tư lệnh Thủ đô tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba.  Một vinh đự lớn lao nhất trong đời, trung tuần tháng 8 năm 1974, là giám đốc Xí nghiệp bê tông Vĩnh Tuy, tôi được Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội giao nhiệm vụ thi công toàn bộ khu vực vườn hoa phía trước Quảng trường Lăng Bác Hồ. Gấp rút. Chất lượng, Thẩm mỹ. Thời gian là mệnh lệnh của trái tim: Bàn giao trước ngày 2/9/1975 để khánh thành Lăng Bác Hồ đón đồng bào miền Nam ra thăm. Cả Xí nghiệp, trong đó có hai vợ chồng tôi vừa mừng to vừa lo lớn nhất trong đời. Công trình thế kỷ đòi hỏi trí tuệ, năng lực và tấm lòng tri ân lãnh tụ khôn xiết thiêng liêng… Trong thời gian thi công công trình, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi và vợ cũng gợn tâm trạng ngày Bắc đêm Nam, muốn về thăm quê, chăm sóc mẹ già hơn 30 năm chờ con mòn mỏi, thắp hương mồ cha liệt sĩ. Nhưng xác định nhiệm vụ như lời tuyên thệ và động viên toàn Xí nghiệp bám công trường, nâng cao năng suất chất lượng và bàn giao vườn hoa Lăng Bác Hồ trước ngày 2/9/1975. Đây là chiến công kỷ niệm 6 năm ngày mất của Bác Hồ…”

Về cụ Thông Phạm, nhều người chỉ biết tiếng kỹ sư Phạm Minh Thông có công lớn trong việc xây chiếc cầu quay sông Hàn nổi tiếng đẹp và thơ mộng ở Đà Nẵng từ nguồn đóng góp xã hội hóa kể cả các xích lô, xe thồ, người bán vé số, người ở xóm nhà chồ bấp bênh trên sông… ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Nếu cụ Thông Phạm không tặng cuốn sách Tấm lòng người thợ xây lăng Bác Hồ và tấm bằng giải Ba cuốn sách, và đặc biệt là nếu không nghe câu chuyện của cụ, thì tôi cũng không biết cụ tham gia tích cực trong xây dựng Lăng Bác Hồ, một nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả và vô cùng vinh dự.

*

Sau khi thắp hương tại nhà thờ Bác Hồ, trước lúc chia tay, tôi gợi ý về nguyện vọng cuối đời, thì hai cụ cùng chung một ý: Qua bao vinh quang và cay đắng, qua bao thăng trầm, từng bị thiệt thòi, hoạn nạn, nhưng tâm niệm học theo tấm gương Bác Hồ về đạo đức cách mạng “cần, kiệm liêm, chính, chí công vô tư”, việc cống hiến, phụng sự cho đất nước, cho dân tộc, nên không nản lòng, nản chí mà luôn vươn lên đấu tranh chống lại tham những, quan liêu, chống lại cái xấu, cái ác, dẫu có bị oan trái, thiệt thòi cũng cam lòng vì lợi ích chung của đồng bào, của nhân dân, của tập thể, đám đông. Hai cụ ôm nhau thấm thía và cùng đọc bài thơ Giã gạo của Bác viết trong tù ngục kẻ thù: “Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/ Sống ở trên đời người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện ắt thành công”.

Nguồn Văn nghệ số 21/2021


Có thể bạn quan tâm