March 28, 2024, 3:44 pm

Chông chênh Bảy Núi

 

Miệt Bảy Núi An Giang nổi danh về thắng cảnh núi non trùng điệp nằm xen lẫn với đồng ruộng bao la, như một điểm nhấn của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đá núi tạo cho nơi này một địa hình bán sơn địa vô cùng độc đáo. Trải qua bao thăng trầm thế cuộc, đá Bảy Núi bao lần thấm máu đào của các chiến sĩ vô danh, đá Bảy Núi cũng ướt đẫm mồ hôi những số phận đang ngụp lặn mưu sinh giữa dòng đời chìm nổi.

Tôi gặp anh Tú năm lần hay bảy lần gì đó, tôi không nhớ rõ. Nhà anh ở ngay bãi đá số 11, thuộc ấp Tô Bình, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn. Đây là nơi được Công ty khai thác đá An Giang tổ chức cho nổ mìn tách đá từ núi, sau đó chế biến đá thành phẩm rồi bán cho thương lái. Những tiếng nổ mìn chát chúa như xé toạt không gian; những đôi vai bóng nhẫy mồ hôi dưới trời nắng gắt; những chiếc ghe đá khẳm lừ xuôi ngược dòng kênh Ba Thê, đó là tất cả những ấn tượng với khách lạ khi lần đầu đến nơi này. Tôi ngồi với anh Tú một buổi chiều mưa. Anh Tú làm nghề gánh đá mướn ở đây đã hơn ba chục năm rồi. Hiện giờ, trung bình thu nhập mỗi ngày của anh khoảng một trăm ngàn đồng. Những khi không ai mướn anh đi phụ hồ thêm để có tiền lo cho đứa cháu gái mới 4 tuổi. Tôi hỏi, con anh đâu sao anh phải lo cho cháu? Anh Tú trầm ngâm, tôi có vợ, không có con nhưng lại làm... ông ngoại. Rồi anh cười hiền, kể, vợ tôi trước đây đẹp nhất xóm này, bị một chủ ghe đá gạt, đến khi có mang, tên đó trốn mất. Thấy cô đau khổ định tự tử nên tôi cưới cô. Đến nay, ngoài đứa trẻ trong bụng cô lúc ấy, chúng tôi chưa có thêm đứa con chung nào. Con gái cô mười bảy tuổi lấy một anh phu đá trong xóm, sanh được đứa cháu này thì khổ quá, đành phải gởi lại cho vợ chồng tôi để đi Bình Dương. Giọng anh Tú trầm đục như tiếng mưa vùng Bảy Núi, thổn thức, thâm u.

Tôi ngồi nhìn ra phía xa, những đống đá dưới mé sông được phủ một lớp bạc trắng như những ngôi mộ nằm lù lù trêu ngươi. Mưa đổ lạch bạch trên mái lá. Anh Tú kể xong những điều trên rồi hầu như không nói nữa, chỉ đưa mắt nhìn khoảng không lòa nhòa ngoài cửa. Đứa cháu ngoại của anh lâu lâu chạy lại dựa vào lòng anh. Anh xoa xoa đầu, hôn lên tóc nó một cái rồi rít mấy hơi thuốc. Chị Lệ vợ anh lâu lâu đi ra xem chúng tôi cần gì không, xong lại vào trong. Chỉ có Dì Chín, mẹ ruột chị Lệ nằm võng bên cạnh, đưa cót két, kể chuyện đời xưa đời nay. Tôi và anh Tú ngồi lặng yên như hai pho tượng, chỉ tiếng mưa, tiếng võng và tiếng dì Chín.

Vùng Bảy núi sở hữu những hồ nước tuyệt đẹp. Ảnh Internet

Dì Chín bảo, cả nhà dì sống nhờ đá, có được nhiều thứ từ đá nhưng cũng mất đi nhiều thứ lắm. Con trai thứ hai của dì là anh Võ Văn Tùng, gánh đá bị té năm 23 tuổi, bác sĩ nói bị dập phổi, gãy xương sườn, cả đời không làm nặng được. Một năm sau khi anh bị tai nạn, vợ anh đã bỏ đi, để lại đứa con mới hơn một tuổi. Giờ anh Tùng đã 40 tuổi, vẫn không làm gì nặng nhọc được, phải phụ giúp bán quán cơm kiếm tiền lây lất sống qua ngày. Dì nói mỗi gánh đá nặng chừng 120kg. Phu đá gánh từ bến xuống ghe, đi trên cây cầu bằng miếng ván bề ngang khoảng 2 tấc rưỡi, trượt chân là coi như hoặc chết hoặc bị thương. Xóm này cũng nhiều người bị té lắm, kể không xiết đâu, nhưng nghề mà, phải ráng theo thôi con. Dì Chín nói thế, giọng vẫn thản nhiên như không. Tôi hỏi, làm cực khổ, đôi khi bán mạng vậy sao cả cái xóm này con thấy toàn dân nghèo không dì? Dì bảo, khá là thời trước, chứ giờ gánh chỉ được mấy ghe nhỏ, ghe lớn người ta làm sạt hết rồi, ai mướn gánh nữa đâu. Tôi hỏi dì sạt là gì, dì trả lời đó là một dụng cụ được làm để xe tải chở đá có thể đổ đá trực tiếp xuống ghe. Nhà dì trước kia có 4 người làm phu đá, đồng vô đồng ra thoải mái lắm. Nhưng từ khi người ta xây mấy cái sạt, số nhân công được thuê mướn giảm nhiều, mấy anh con trai dì đều dạt lên xứ Bình Dương, Đồng Nai làm công nhân cho xí nghiệp. Chỉ còn anh Tú con rể dì bám nghề. Ông Chín cũng theo nghề, nhưng giờ già rồi, chỉ làm đá vụn, ngày kiếm mấy chục ngàn, nhiều khi chỉ đủ tiền thuốc. Sợ tôi không hiểu, dì nói thêm, nghề đá vừa cực vừa tổn sức. Ví dụ, mấy thanh nhiên gánh đá giữa trưa nắng, nóng quá là nhảy cái ùm xuống sông cho người “nguội” bớt, rồi để mình mẩy ướt như vậy gánh tiếp, đến khô lại nhảy xuống. Kiểu đó lâu ngày hầu như đứa nào cũng bị bệnh phổi. Thêm nữa, dân chẻ đá, đục đá hoặc làm đá vụn thì bị bụi đá bay vào phổi, thời trẻ không sao chứ lúc về già bệnh rề rề hoài. Tiền cũng vô nhưng ra đường này đường kia hết, đến khi già nhiều khi không có tiền uống thuốc. Dân nơi đây ai cũng biết làm đá cực, nhưng không chọn nghề này biết làm gì bây giờ. Đất cát không có, chỉ làm mướn lây lất thôi, không làm đá đi Bình Dương làm công nhân, cũng vậy, lại xa quê. Có người đâu chịu rứt khỏi quê, đành bám đá để sống cuộc đời cùng đá.

Tiếng mưa vẫn rơi đều trên mái lá. Tiếng dì Chín cũng rớt đều trong đêm. Tôi nghe như cả một quãng đời dài đằng đẵng của dì ngập tràn trong đá, được dì khoan nhặt trong đêm mưa này. Anh Tú vẫn điềm nhiêm, thỉnh thoảng rít thuốc rồi nhả khói vào xa xăm. Có lẽ chính sự xuất hiện của tôi khiến cho những con người nơi đây thức dậy những kỷ niệm của một thời về đá, tiếc rằng đó chỉ là những thổn thức không hồi kết. Đêm đó, tôi nằm ngủ trên chiếc chõng tre trước hiên nhà dì Chín. Cái xứ này lạ, ban ngày nắng nóng như thiêu như đốt, nhưng đêm lại lạnh, cái lạnh từ đá ra. Tôi đắp một cái mền mỏng, co rút lại nhưng vẫn không ngủ được vì lạnh như từ trong xương. Đến mãi gần sáng tôi mới chập chờn chợp mắt, và trong chiêm bao, tôi thấy mình oằn dưới gánh đá nặng trìu trĩu, rồi rơi xuống một cái vực nào đó, rất sâu. Tôi bừng tỉnh giấc, phía đằng đông ưng ửng một vệt hồng. Ngọn núi Cô Tô bị phạt mất một góc, hõm sâu vào, như một vết thương không bao giờ kín miệng.

Tôi từ giã gia đình anh Tú lúc tờ mờ sáng, rồi chạy về hướng Ba Chúc, Lương Phi. Trên đường đi, tôi bắt gặp những bãi đá lát đát người. Có những chiếc lưng đã còng đi dưới gánh đá nặng trĩu. Những đứa trẻ ngơ ngác nhìn đống đá to bằng cái nhà mà ba mẹ chúng đang tha từng gánh xuống ghe. Những người phụ nữ vốn chân yếu tay mềm nhưng ở cái xứ này vẫn làm việc nặng nhọc như đàn ông, mới sáng sớm, lưng họ mồ hôi đã ướt đẫm. Họ ước mơ gì khi bình minh vừa ló dạng, bên hồn đá trăm năm? Đang miên man nghĩ, tôi bỗng giật mình vì bóng Ô Tà Sóc ẩn hiện trong sương sớm, lặng thầm một nét huyền ảo nguyên sơ. Ô Tà Sóc là tên gọi theo tiếng Khmer của một ngọn đồi ở xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, có nghĩa là “suối ông Sóc”, vì nơi đây có một dòng suối tự nhiên chảy từ đỉnh đồi xuống. Với địa hình đồi núi hiểm trở và hệ thống đường hầm chằn chịt, nơi đây từng là căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy An Giang thời chống Mỹ. Năm 1969, liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng Hòa càng quét vùng Thất Sơn, tập trung các hướng tấn công chủ lực về núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường và Ô Tà Sóc. Tỉnh ủy phải rút lui về núi Cô Tô, cố thủ tại đồi Tức Dụp, chỉ cử lại 7 đồng chí giữ hang Ô Tà Sóc. Máy bay địch bắn phá ác liệt, cửa hang bị sập, cả 7 chiến sĩ đều bị kẹt lại trong hang. Khi địch rút quân, bộ đội ta tiếp tế cho các anh bằng cách đổ nước cháo và sữa qua ống tre, đồng thời tìm cách phá cửa hang nhưng bất thành. Rồi địch tiếp tục mai phục và công kích, khiến người trong hang chưa cứu được mà người bên ngoài đã thương vong, chúng ta đành cay đắng để các anh nằm lại nơi đây. Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ nhưng nỗi đau trên ngọn đồi Ma Thiên Lãnh nơi các anh nằm vẫn như một sự quặn thắt của dân tộc. Thế hệ của tôi không biết nhiều về chiến tranh. Thế nhưng, mỗi lần về với Bảy Núi, tôi không tránh khỏi cảm giác xót xa. Bởi tôi biết, từng thớ đá nơi đây vẫn còn thấm máu cha anh, để cây hồng quân bao mùa cho trái ngọt.

Tôi lên đỉnh đồi khi sương sớm còn ướt đẫm trên từng cánh hoa, mắt lá, nghe tiếng chim rừng rạo rực chào đón bình minh. Đến đỉnh đồi, nhìn khối đá khổng lồ nằm ngạo nghễ, tôi bỗng nhớ mấy câu thơ của Nguyễn Thị Trà Giang:

Tôi thẫn thờ trước khối đá lặng căm

Lấp cửa hang chôn các anh trong đó

Chôn nỗi khát khao, chôn niềm thương nhớ

Mưới tám đôi mươi, trẻ quá cuộc đời

(Trên đồi Ma Thiên Lãnh)

Ngồi dựa lưng vào tảng đá ở hang Điện Trời Gầm trên đỉnh Ma Thiên Lãnh, tôi đốt 7 điếu thiếu đặt ở miệng hang, thầm khấn vong linh các anh thôi thổn thức, bởi đất nước mình giờ liền một dải, non sông khởi sắc từng ngày. Sự hi sinh nào cho Tổ quốc cũng vinh quang.

Tôi gặp nhà thơ Trần Thế Vinh dưới chân đồi Tà Sóc. Anh là nhà thơ có câu sì-lô-gân nổi tiếng, tự xưng là “người vạch đá làm thơ xứ Bảy Núi”. Tôi nói, anh Vinh ơi sống với đá khổ quá, sao làm thơ nổi hả anh. Tôi mới đi xóm đá Cô Tô về, từ đỉnh Ô Tà Sóc xuống, cảm xúc khá tả quá anh ơi. Anh Vinh trầm ngâm một lúc, rồi bảo, người đời đôi khi nghĩ chưa trọn về thơ. Đâu phải lúc nào thơ cũng là cái đẹp, cái lãng mạn. Thơ cần phải đa diện, phải nhìn thấy trong tận cùng nỗi khổ đau, viết bằng nước mắt của nhân sinh, thơ mới đáng đọc. Anh Vinh còn nói thêm nhiều nữa, không phải nói với tôi, anh đang tự vấn về cái thiên chức của thơ thời nay, khi con người đang vật lộn với cuộc sống. Đoạn, anh Vinh cất giọng ngâm mấy câu thơ vọng vào vách núi:

Bụi trong mắt lăn tăn

Tiếng suối xa mang ẩn số núi rừng

Lượm viên sỏi

Ném vào chiều cũ bâng khuâng

Phút thiêng liêng chân mây phiêu dạt

Trái núi dựng giữa chiều ngơ ngác

(Thông điệp chiều Thất Sơn – Trần Thế Vinh)

Tiếng ngâm của anh trầm đục, khắc khoải. Tựa hồ như những nỗi niềm đã chất chứa tự ngàn năm, nay bung tỏa. Tôi lặng yên, ngắm chiếc bóng anh đang trải dài nơi triền dốc. Gương mặt anh đầy minh chứng của thời gian, đôi mắt vời vợi như đáy vực. Tôi với anh, một già một trẻ ngồi bên nhau, miên man bao nỗi niềm trắc ẩn. Anh Vinh từng là bộ đội tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam, từng bao lần mai phục trên đỉnh núi Dài, bao lần vượt kênh Vĩnh Tế đánh đuổi bọn diệt chủng Pôn-Pốt. Anh chỉ tôi xem, trên đỉnh núi Phú Cường, nhìn về phía Tây là con kênh Vĩnh Tế, xa hơn nữa là núi Tham Đưng thuộc địa phận Campuchia. Chính phủ hai nước đã nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng hướng đến mối quan hệ đoàn kết anh em son sắc. Dọc tuyến biên giới Tây Nam ngày nay dân cư hai nước qua lại giao thương tấp nập. Kia là cầu Hữu Nghị, gần hơn là cửa khẩu Xuân Tô hiện lên như thiện chí xoa dịu vết thương hai dân tộc. Ánh mắt anh Vinh nhìn lên trái núi bát ngát xanh.

Từ giã anh Vinh, tôi rong ruổi quanh vùng Bảy Núi, với tham vọng hiểu thêm về đá, về quê hương, hiểu thêm về những mất mát đau thương lẫn sức hồi sinh của vùng quê này. Kia là núi Bà Đội Om với truyền thuyết về người phụ nữ thủy chung tìm chồng giữa bạt ngàn sương gió, thân hóa đá rồi mà mắt vẫn vọng về phía trời xa. Mỏm đá hình người phụ nữ đang đội chiếc cà om vươn mình trong nắng gió là minh chứng cho tình yêu vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, đẹp vậy thay! Xa xa, núi Két ẩn hiện giữa cánh rừng xanh thẫm, như chú chim khổng lồ đang đợi thời khắc linh thiêng vỗ cánh bay vào không trung. Núi Dài nằm đối xứng với núi Két, khiến dốc Nhà Bàng như một cái yết hầu, vừa mê đắm vừa dễ chồn chân. Rồi núi Trà Sư, núi Nước, núi Tượng, núi Sam... như mấy hòn đá của những cô Tiên tinh nghịch, ném vương vãi khắp đồng bằng, khiến cho quê hương An Giang trập trùng kỳ quan của Tạo Hóa.

Có một ngọn tôi không thể không nhắc đến, đó chính là núi Cấm. Đây được xem là nóc nhà của Đồng bằng sông Cửu Long, với độ cao 716m so với mực nước biển. Núi Cấm cũng là một trong những nơi thu hút lượng lớn du khách bởi quần thể thắng tích, hệ thống đình chùa miếu mạo dày đặc. Chính vì thu hút khách du lịch nhiều nên người ta chẻ đá làm đường cho xe chạy lên đỉnh núi, bên cạnh con đường mòn có những bậc thang vốn dĩ được làm từ thời Pháp thuộc.

Năm 2012, xảy ra vụ tai nạn thương tâm trên núi Cấm. Có một hòn đá to từ đỉnh núi bất ngờ lăn xuống, đè bẹp chiếc ô tô đang chở khách lữ hành. Tai nạn khiến 6 người chết, khiến nhiều người hoang mang. Ban Quản lý khu du lịch Núi Cấm phải cho đóng cửa nhiều tháng để khắc phục sự cố gây ra do cái thứ “từ trên trời rơi xuống”. Hai năm sau, khi tháp tùng với đoàn Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tham quan núi Cấm, chúng tôi có đến địa điểm này. Một hòn đá hàng trăm tấn vẫn nằm trơ bên vệ đường, như sự thách thức của tạo hóa. Tôi quan sát thấy có mấy cây chân nhang quanh hòn đá, một số khách hành hương khi đi ngang qua cũng chắp tay xá xá hòn đá, như một vật thiêng. Ở “cái nôi của đạo Phật Giáo Hòa Hảo”, những hành động này không còn xa lạ gì cả. Kiểu như vào năm 2010, huyện Châu Phú có đoạn đường thuộc quốc lộ 91 bị sạt lở, người ta đồn rần rần đó là sự nổi giận của Thần Sông. Họ đâu biết rằng, chính việc khai thác cát vô tội vạ ở thượng nguồn sông Hậu một thời gian dài khiến dòng chảy thay đổi. Và nó không ngại ngần cuốn phăng cái đoạn đường kiên cố đã gắn bó với nó hàng trăm năm trời. Lần đá rơi ở núi Cấm, nhiều người vẫn cho rằng Thần Núi ra oai, trừng phạt những ai ở ác. Nói thế tội cho những người xấu số kia, tai bay vạ gió làm sao tránh, hiền dữ làm sao phân xử? Mãi đến đầu năm 2016, trong Hội thảo “Núi Cấm – sự thật và huyền thoại” do Hội Sử học An Giang với UBND huyện Tịnh Biên phối hợp tổ chức, câu trả lời này mới tương đối thỏa đáng. Trong bài tham luận tại Hội thảo, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, nguyên Chủ tịch Hội VHNT An Giang cho rằng, hiện tượng đá lở trên núi Cấm không phải là hiện tượng siêu nhiên, mà do con người. Cụ thể, trong quá trình thi công con đường lên núi, chúng ta đã dùng thuốc nổ, dùng máy móc cơ giới làm chấn động, làm nứt rạn các khối liên kết vốn rất bền vững của khối núi. Dĩ nhiên có nơi sau khi bị rạn nứt sẽ sập đổ ngay, nhưng có nơi vẫn còn kết nối ở mức tương đối, chỉ khi sương gió tác động nó mới sập đổ. Trước kia, khi người Pháp thi công đoạn đường đi bộ lên núi Cấm, chúng toàn bắt dân phu làm bằng chân tay. Sự tác động với khối núi khi ấy là không lớn. Chúng ta bằng cơ giới mà không tính toán khoa học nên nhận hậu quả tất yếu. Nhưng vẫn chưa hẳn đã hết đâu, hiểm họa vẫn tiềm tàng...

Tôi thấy ông phát biểu với một nỗi niềm trắc ẩn của người có trách nhiệm, chứ không hề đao to búa lớn lên gân. Ông ngậm ngùi, chua chát bảo, chúng ta hành xử với thiên nhiên như một kẻ côn đồ rồi cũng có ngày nào đó, thiên nhiên sẽ giáng lại chúng ta những đòn chí mạng. Lời cảnh báo ấy tôi đã thấy trong những trận lũ lụt ở miền Trung, trong xác cá chết dọc bờ biển Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình và trong hàng ngàn sự kiện nhói lòng khác nữa mà những ai có trách nhiệm phải ngửa mặt kêu trời.

Đừng tưởng đá vô tri. Kì thực đá có linh hồn. Có điều, hầu hết chúng ta, khi tâm hồn đã chai sạn, chỉ nhận thấy phần xác của đá. Có lần, khi xem các nghệ nhân điêu khắc đá, tôi phải ngỡ ngàng thốt lên:

Đi xem tạc tượng

Thấy thán phục các nghệ nhân vô cùng

Bởi họ biến gỗ đá thành những thứ có linh hồn

Chợt giật mình

Quanh ta

Nhiều linh hồn đã biến thành gỗ đá

(Xem tạc tượng)

Tôi đến Bến Đá dưới chân núi Sam, uống chén trà với nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, ngắm nhìn vườn tượng bằng đá ẩn hiện trong sương sớm. Hàng trăm pho tượng đá đẹp mê hồn, nằm khép mình dưới chân núi, bỏ mặc những ồn ào phố xá, lộng lẫy một cách bình tâm. Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài cho biết, những pho tượng này là tác phẩm của các điêu khắc gia trong nước và quốc tế thực hiện trong đại điêu khắc đá năm 2003. Những tảng đá nguyên khối hàng chục, hàng trăm tấn được quy tụ về, được nghệ nhân thổi hồn, bất giác như đang thức dậy trầm tích ngàn năm. Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đọc mấy câu thơ trong mông lung ảo giác:

 “Hớp ngụm trà sương

Vườn khuya ngắm tượng

Rùng mình gió thoảng

Nghe hồn đá bay

Tôi thấy ánh mắt ông cùng với sương khói sớm mai hòa vào từng thớ đá, bật dậy sức sống cổ kim, hòa quyện đến khôn cùng. Tôi cúi đầu hôn vào chân một pho tượng đá, chợt thấy ngập tràn hồn mình những đóa hoa đá nở lung linh.

Nguồn Văn nghệ số 35+36/2019


Có thể bạn quan tâm