April 25, 2024, 7:37 am

Chất hùng ca trong Lính Tăng*

Lính tăng của Nguyễn Bắc Sơn gồm 24 chương với 582 trang sách khổ 13,5x20,5cm. Ban đầu, bản thảo tác phẩm mang tên là Lính tăng – bản hùng ca chiến trận.

Tên ấy thể hiện rõ âm hưởng chủ đạo xuyên suốt cuốn sách là chất hùng ca: bài ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, biểu hiện cụ thể ở tinh thần yêu nước, sẵn sàng lên đường cứu nước, ở tinh thần đoàn kết, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 195. Nội dung Lính tăng dựa vào sự kiện lịch sử khi tăng của ta xuất hiện ở mặt trận Lào từ năm 1969 đến năm 1975.

Trong Lính tăng, nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật có phẩm cách đẹp đẽ, trước hết là người chiến sỹ anh hùng thể hiện qua các nhân vật mà đại diện là Nguyễn Văn Nhã và Trần Văn Vụ. Nhã vốn là giáo viên dạy Sử cấp 3, có vợ con nhưng con chưa biết mặt. Huấn luyện tân binh xong, được cử làm tiểu đội trưởng, cùng đồng đội vào Nghệ An bằng ô tô, đi bộ sang Trung Lào, suýt nữa bị mất mạng vì tay tiểu đội phó nhát gan, sợ chết đã ném lựu đạn trong đêm, tưởng gặp phỉ… Cả đơn vị hành quân mang vác gạo cùng vũ khí, tư trang - mỗi người tới 50 kg trong tầm oanh  tạc của máy bay Mỹ, liên tiếp bị bọn phỉ quấy rối, trên đường lởm chởm đá tai mèo mà không thể hạ xuống nghỉ. Song nhờ sự chia sẻ giúp đỡ trong đơn vị, tất cả đã hoàn thành nhiệm vụ. Thử thách thứ hai là Nhã được giao mang bản kế hoạch tác chiến đến cho Tiểu đoàn phó ở Phu Tâng trước 18 giờ. Hai người cùng làm nhiệm vụ này để phòng người này hy sinh thì có người kia. Với tính chất vô cùng nguy hiểm của chuyến công tác, đơn vị đã truy điệu… sống cả hai chiến sỹ Đến và Nhã trước khi lên đường... Từ khi được phân công làm thông tin, Nhã nỗ lực rèn luyện để nắm chắc chuyên môn để tự tin vào năng lực và bản lĩnh của mình. Nhờ đó anh hoàn thành tốt công việc được giao, đảm bảo dịch văn bản chính xác cho chỉ huy trong trận đánh hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, pháo binh và tăng thiết giáp. Vượt qua những thử thách sống còn ấy và mấy lần chết đi sống lại, Nhã đã trưởng thành thực thụ, làm tròn “nhiệm vụ… ngoài nhiệm vụ”, là bản thảo lịch sử tiểu đoàn tăng 195. Ngày chiến thắng trở về, Nhã không thể ngờ phải đối mặt với một thử thách khác: vợ đã đi lấy chồng, có con. Tác giả rất tinh khi để nhân vật Nhã cho người vợ tự quyết định tương lai mình và đứa con. Và diễn tiến cũng thật hợp lý khi người vợ ấy ở lại với người chồng mới làm nghề nhiếp ảnh. Còn Nhã, anh đã về đơn vị sớm trước thời gian được nghỉ phép nhiều ngày và cố quên nỗi buồn bởi chiến tranh trong công việc nghiên cứu viết sử. Cuối tác phẩm, “hạnh phúc ngọt ngào” cũng đã mỉm cười khi anh xây dựng gia đình với chị Thanh Tạo, người con gái đứng tuổi đồng cảm với anh, một phó trưởng khoa điều dưỡng ở bệnh viện đa khoa tỉnh…

Nhân vật cán bộ được miêu tả tập trung ở hai chương liền nhau với gần 100 trang (Chương 16, 17) đại diện là Tướng Lê Trọng Tấn và tiểu đoàn trưởng xe tăng Lê Tịnh. Lê Trọng Tấn là một vị tướng chỉ huy chiến dịch tài giỏi và am tường chiến trường Lào. Lần này nữa là ba lần ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử sang nước bạn với trọng trách làm thay đổi cục diện chiến trường mà đỉnh điểm là chiến dịch Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, hỗ trợ cho chiến trường B - miền Nam Việt Nam, sớm kết thúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam và ở Lào. Ông là vị tướng đánh giặc bằng mưu lược, tài trí, sáng tạo. Người đã từng táo bạo ra những mệnh lệnh vô cùng độc đáo: Cho bộ đội mặc bộ quân phục mới nhất ra trận. Tuy biết rõ là xe tăng chỉ quen đánh ngày, chớp thời cơ, lần này ông lệnh cho tăng đánh cả ngày lẫn đêm. Giờ G, tất cả xe tải đều bật đèn pha soi cho tăng tấn công khiến địch trở tay không kịp và càng khiếp sợ. Bộ Tổng tham mưu không chỉ đánh địch bằng ý chí tiến công. Trước đó, quân ta đã bí mật chuyển pháo nòng dài 130 li, tăng T54, T59, súng phun lửa lắp trên xe tăng. Thấy địch nghi binh thả pháo sáng dày đặc hướng đông, hướng tây chỉ thả thưa thớt, ông lệnh cho pháo chiến dịch chuẩn bị đạn sát thương, căn sẵn tọa độ cả hai hướng đông tây. Đến lúc địch rút chạy về hướng đông, lại lệnh cho bộ binh và xe tăng truy kích, dồn địch về hướng đông để pháo binh bắn cấp tập với tiếng thét ra lửa: “Chậm trễ là tao cách cổ đấy”. Rút cuộc, kế hoạch tác chiến đề ra bảy ngày, chỉ mất hai ngày là thắng lợi. Bên cạnh việc phản ánh tài mưu lược hơn người của vị tướng, nhà văn không ngại nói cả tật xấu ông không bỏ được là: nóng như lửa và nghiện thuốc lá. Điều này càng làm cho nhân vật hiện lên chân thực và “người” hơn.

Nhân vật chỉ huy khác tính cũng nóng như lửa là tiểu đoàn trưởng Lê Tịnh, biệt danh là Tịnh Lửa. Là lính bộ binh từ thời chống Pháp, được chọn đi học tập quân sự nước ngoài. Về nước, ngay khi anh nhận đưa quân từ chân Tam Đảo ra ga Vĩnh Yên lên tàu, đơn vị đã xảy ra một tai nạn đáng tiếc: tăng bị lật ngửa khi qua cầu. Lê Tịnh đã biết rõ được nguyên nhân vì sao xe lật, giải quyết nhanh gọn, dứt khoát và nhận trách nhiệm về mình. Điều đó đã chứng tỏ bản lĩnh của người chỉ huy ở anh. Trên đường ra trận, tâm trạng của những người lính thường rất nhiều áp lực, cần biết đùa để hòa đồng với lính, xua đi những căng thẳng là điều không dễ. Lê Tịnh là thủ trưởng rất biết đùa với lính. Phải là người trí tuệ, tinh tế lắm, anh mới có thể hỏi Trần Văn Vụ: “Tiếng Việt có mấy dấu?”. Từ đó anh giải thích thấu đáo ý nghĩa tên Vụ và thật bất ngờ khi hỏi: “Thế tên mình, cậu thích nhất dấu gì, còn tên tớ, tớ thích nhất dấu huyền” để lái về chuyện trai gái, chuyện tình yêu, hôn nhân mà anh biết rõ cánh lính mình hầu hết còn chưa có gia đình, ai cũng tò mò, háo hức muốn nghe. Nhờ thế mới “gãi đúng chỗ ngứa” để anh có dịp vỡ lòng cho lính về chuyện có vẻ như ai cũng biết theo bản năng chứ không phải đều biết như một khoa học. Không giảng giải như các thầy lên lớp, anh trò chuyện, bộc lộ, tâm sự về bản thân với chiến sĩ đầy cuốn hút, khiến cánh lính trẻ bỏ cả ván bài đánh dở, xúm vào quanh thủ trưởng nghe mê mải. Đời thường, có thích, quý và nể trọng nhau thì khi vào trận mới sống chết, mới sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ, danh dự. Nếu ngày thường chỉ gây căng thẳng, ức chế nhau thì khi ra trận, chỉ huy rất dễ bị hở sườn, có khi còn bị đạn bắn sau lưng không chừng.

Nhà văn chia sẻ: Trong bản thảo cuốn tiểu thuyết, ông trang trọng ghi lời đề từ: “Tôi không viết về lịch sử chiến tranh mà viết về cảm xúc con người trong chiến tranh” của Svetlana Alexievich. Đề từ là những câu văn, lời thơ cô đọng, dẫn ra ở đầu văn bản nhằm thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm để định hướng cho sự cảm nhận của người đọc. Với quan niệm ấy, ông muốn người đọc tiếp nhận tâm trạng, cảm xúc của các nhân vật trong Lính tăng. Khi viết, ông chỉ nương vào lịch sử tiểu đoàn 195, chính xác thời gian, địa điểm, danh tính thật. Sự việc đại thể là có thật, cụ thể chi tiết thì có thể có thật. Tất nhiên nhịp đập của người lính thời ấy, nhà văn bây giờ phải hòa cùng con người thời ấy mới miêu tả đúng nhịp đập, máu thịt, tim óc nhân vật. Trường đoạn Lê Tịnh và chiến sĩ liên lạc Lê Thế Thịnh tắm trước khi lên Hang Nước - nơi anh hy sinh - được miêu tả và lời thoại là tác giả dựng chứ không phải kể lại, theo tôi là một trong những trang hay nhất, xúc động nhất. Ngôn ngữ giàu chất lính, mà là lính tăng chứ không phải binh chủng nào khác. Lối xưng hô là của cấp trên, quê Hà Tĩnh mới nói thế. Qủa là tác giả đã hóa thân vào nhân vật, đi sâu vào nội tâm người chỉ huy, hiểu thấu tấc lòng của người cán bộ đã có vợ con và một chiến sĩ trẻ chưa từng cầm tay một người con gái nào khi viết: “- Sao mi biết tau đang đói mà bóc lương khô đưa vào tận miệng tau? - Thủ trưởng ăn từ mấy giờ, ăn bao nhiêu em nhớ chứ. Không kịp uống nước, hoặc uống chưa đủ liều lượng em phải biết chứ?... - Thế bây giờ tau muốn tắm sao mầy không biết? - Biết chứ ạ! Nhưng mà không mang quần áo thì… làm… thế nào? - Thì tắm truồng chứ sao?”  Quá bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Cậu liên lạc còn trẻ ngập ngừng: “- Ai lại thế ạ? - Sao không thể được? Mầy không biết “Hơn nhau tấm áo manh quần / Thả ra mình trần ai cũng như ai” à? Hay mầy cho súng mầy hơn súng tau? Súng mầy cỡ 100 li, súng tao cỡ 85 hay 76,2 thôi…”. Chỉ lính tăng mới so sánh với nòng pháo 100 li của T54, T 59; 85 của tăng T34; 76,2 là nòng pháo của tăng T76.  Đọc mấy trang ấy (từ 361- 368), người đọc biết Lê Tịnh yêu vợ, yêu cuộc sống, gắn bó với đồng đội đến thế nào? Anh nói câu cuối cùng đầy tiếc nuối đời binh nghiệp dang dở và oán hận kẻ thù: “Thế là Vàng Pao đã cướp mất hai mươi mốt năm lính của tao rồi Thịnh ơi” khiến ai cũng rưng rưng nước mắt.

*

Ngoài trần thuật và miêu tả, tái hiện, tiểu thuyết muốn hấp dẫn người đọc phải có những cao trào. Lính tăng có nhiều chương khá ấn tượng. Chương mở đầu là một cao trào, kịch tính ngay trong cảm xúc, tâm trạng người lính khi cho và nhận mà ý chí vẫn “Khắc đi, khắc đến”. Sang chương 2 - tác giả không ngần ngại dùng cả khẩu ngữ trong tự sự - khẩu khí “Đ… sợ” lẫn tinh thần quyết thắng của bộ đội ta thể hiện ngay trong cái ngoắc tay giữa người chiến sĩ với thủ trưởng đơn vị hẹn ngày trở về đến nhà chơi. Trong Lính tăng có 3 chương (4,5,11) tác giả phác thảo về nhân vật phản diện Vàng Pao và kết cục số phận của hắn. Bản chất tham lam, độc ác, tàn nhẫn của kẻ bợ đỡ quan thầy Mỹ như những mảng tối đã càng làm nổi bật thêm phẩm cách trong sáng, cao đẹp của cán bộ và chiến sĩ ta. Còn lại cả 21 chương khác đều là các đoản khúc của bản hùng ca yêu nước, hùng ca chiến trận. Bản trường ca hợp xướng ấy có nhiều âm hưởng, nhiều giai điệu đẹp: có những khúc dạo đầu, có những khúc phát triển, có những khúc thanh âm vút cao, sảng khoái, lại có khúc trữ tình êm đềm, sâu lắng, và cũng có những khoảng lặng để lý giải. Có khúc vĩ thanh hội ngộ thật cảm động. Nhiều câu văn trong Lính tăng được lẩy ra từ tục ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói của lính, mang đậm tính triết lý về cuộc đời nói chung và sự chiêm nghiệm của tác giả nói riêng. Chẳng hạn như: “Má văn công, mông bộ đội”, “Lính tráng chỉ có việc làm theo lệnh thôi. Thời buổi chiến tranh không thể cầu toàn được”; “Chủ trương đúng phải đi đôi với biện pháp hay”; “Khoa học quân sự là đỉnh cao tập hợp thành tựu của nhiều khoa học kỹ thuật khác. Ai vận dụng linh hoạt mới đạt tới nghệ thuật quân sự”; “Con người là yếu tố quyết định, thậm chí quyết định tấ cả”… Tất cả đều được chắt lọc từ vốn sống đa dạng ở nhiều lĩnh vực của một cây bút có tâm, có tầm.

______

* Về tiểu thuyết Lính tăng của Nguyễn Bắc Sơn, Nxb Văn học, 2019

Nguồn Văn nghệ số 40/2020


Có thể bạn quan tâm