April 24, 2024, 10:53 pm

Cần thiết nhưng chưa cấp thiết

Gần đây trên một số diễn đàn văn hóa và nhất là trên mạng xã hội, xuất hiện khá nhiều những bài viết trao đổi, đôi khi tranh luận khá quyết liệt, về sự thay thế chữ Hán - Nôm bằng chữ Quốc ngữ ở nước ta.

Chung qui có 2 phái với 2 luồng quan điểm. Phái ủng hộ sự thay thế kể trên thì dẫn ra những tiến bộ vượt bậc về văn hóa và khoa học - kỹ thuật kể từ khi người Việt dùng chữ Quốc ngữ. Phái phản đối thì cho rằng việc thay thế ấy đã tạo nên một sự “đứt gãy” văn hóa, khiến con cháu thời nay và mai sau khó tiếp nhận đầy đủ những giá trị văn hóa của cha ông. Vì vậy, họ đề xuất cấp thiết phải dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông, từ bậc Tiểu học.

Thực ra những tranh luận trên đây đã ngã ngũ từ hơn 1 thế kỷ trước. Ngay từ nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều ý kiến của các nhà khoa bảng Nho học và trí thức Tây học cùng bàn về vai trò chữ Hán và Nôm -Quốc ngữ trong tương quan Đông - Tây, truyền thống - hiện đại, sự đứt gãy và khả năng tiếp nối, phát triển văn hóa dân tộc. Nổi bật là các vị: Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Trọng Thuật, Lê Dư, Nguyễn Văn Tố, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Hoa Bằng, Diệp Văn Kỳ, Phan Văn Hùm, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Kiêm, Đào Trọng Đủ, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế v.v… Các vị đã luận bàn trên hầu hết các phương diện nguồn gốc, diễn tiến, vị thế văn hóa - văn học, vai trò lịch sử của chữ Hán - Nôm trong sự so sánh và đối sánh với tiếng Việt - chữ Quốc ngữ Latinh hóa. Ở đây cũng cần phân biệt rõ chữ Hán là ký tự ngoại lai và chỉ có chữ Nôm và Quốc ngữ mới ký âm, ghi âm tiếng Việt theo những nguyên tắc, cách thức và cấp độ khác nhau.

Từ rất sớm, học giả Phạm Quỳnh đã tham gia giảng dạy môn “Hán - Việt văn tự” ở trường Cao học Đông Pháp (1924) và viết bài giải thích tương quan tiếng Việt - chữ Hán, quá trình tiếp nhận chữ Hán, hình thành dòng văn hóa - văn học chữ Hán và xác định: “Nay tiếng An Nam dẫu cú pháp và thanh âm không phải chịu của tiếng Tàu nhưng cũng nhờ tiếng Tàu mà gây thành ra một thứ tiếng gọi là tiếng Hán - Việt” (Nam phong Tạp chí, số 107/1926). Điều này có nghĩa rằng người Việt có thể tiếp nhận tiếng Hán và chữ Hán với tỉ lệ bao nhiêu chăng nữa thì trước sau vẫn cần được Việt hóa, chuyển hóa vào hệ thống từ nguyên Việt và phát âm theo tiếng Việt…

Hơn 10 năm sau, học giả Phan Khôi có bài Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta đã cho rằng: “Người nước Nam, nói thì nói tiếng nước mình, viết thì viết chữ nước khác, tay còn không theo được miệng thay, bảo sao lời cho đạt được ý? Chính vì đó mà văn học chữ Hán của ta đã không thành ra một văn học chân chánh xứng với danh từ nó như của Trung Hoa. Ấy là một cái lầm chung của cả một thời đại từ xưa, chứ chẳng phải cái dở, cái bất tài riêng của từng người một mà đáng để cho chúng ta ngày nay chê hay trách vậy”. Từ đó, ông đề nghị: “Tôi muốn nói đương lúc văn học chữ Hán của người Việt Nam tàn tạ, đáng lẽ, trong đó, nếu có tác phẩm gì hay, cần phải dịch ra Quốc ngữ để làm hòn đá tảng, không thì cũng góp một viên gạch, một tấm ngói cho cái lâu đài văn học mới sau này” (Tao đàn, số 1 và 2-1939)... Như vậy, với Phan Khôi, vấn đề văn tự Hán và văn học chữ Hán đã được giải quyết cơ bản, trong đó văn tự Hán đã trở thành tử ngữ và văn học chữ Hán trở thành di sản quá khứ, cần phải dịch ra Quốc ngữ để bảo tồn và các giá trị tinh thần mới có thể tiếp tục tái sinh, phát huy, hội nhập trong thời đại mới.

Trở lại bài học kinh nghiệm quá khứ, ngay từ thế kỷ X, ông cha ta vừa thực hiện Hán hóa vừa nỗ lực “giải Hán hóa” trên phương diện văn tự bằng cách sáng tạo chữ Nôm từ gốc chữ Hán để biểu âm, biểu ý và ghi âm tiếng Việt. Theo đó là dòng văn học Nôm với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhiều tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Tuy nhiên, do đặc tính phiếm chỉ, ước lệ, võ đoán của lối ghi tiếng Việt bằng chữ Hán nên tính chuẩn xác của chữ Nôm không cao và dòng văn học Nôm không được xếp hạng bác học, hàn lâm, bị xem là “nôm na”. Chữ Nôm cũng không đủ năng lực biểu đạt trong ngôn bản hành chính, nghị luận, chính luận. Ưu thế, thành tựu văn học Nôm chủ yếu thuộc về thơ ca mà phần hình ảnh, nhạc điệu, vần vè đã giúp cho việc đọc, phiên âm văn bản trở nên thuận lợi hơn. Thêm nữa, việc học chữ Nôm trở nên quá khó bởi lại cần nền tảng tiền đề là nguồn chữ Hán. Chính vì thế nên chữ Nôm không khả dụng, không dễ truyền dạy, phổ cập trong đại chúng và công cuộc thử nghiệm, truyền bá chữ Nôm ở Việt Nam hầu như đã thất bại, suy tàn theo chữ Hán.

Khác với mối quan hệ phụ thuộc, tiệm tiến của chữ Nôm so với chữ Hán, qua hai thế kỷ định hình, đặc biệt từ khi khoa bảng Nho học kết thúc vai trò lịch sử, chữ Quốc ngữ Latinh hóa đã trưởng thành, phát triển gia tốc và lên ngôi chỉ trong vòng vài ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, sự xuất hiện chữ Quốc ngữ lần này không ký sinh theo khối chữ Hán quen thuộc mà đến từ phương Tây khác biệt, xa lạ. Nhà phê bình Kiều Thanh Quế trong sách Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943) đã luận giải và chứng minh đến khoảng giữa thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ và nền văn học Quốc ngữ đã hoàn thành cuộc đại cách mạng, căn bản đoạn tuyệt với chữ Hán, khoa bảng Nho học và dòng văn học chữ Hán. Đương nhiên cuộc đại cách mạng chữ Quốc ngữ đã kéo theo sự đứt gãy văn hóa, biểu hiện trong thế đối lập Đông - Tây, tân - cựu, truyền thống - hiện đại. Điều quan trọng là sự đứt gãy thể hiện quy luật tất yếu, phù hợp với văn minh, tiến bộ xã hội, được giới trí thức và đại chúng cả nước đồng lòng hưởng ứng. Các phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hội Truyền bá Quốc ngữ theo tinh thần Duy tân, Cách mệnh lan tỏa rộng khắp, tạo đà cho báo chí và các tổ chức, trào lưu, thể loại văn học đua nở; mở ra thời đại mới của thơ ca, văn xuôi, chính kịch...

Cơ duyên đã đưa mẫu tự Latinh từ trời Tây đến và người Việt đã tiếp nhận, kích hoạt, hoàn thiện dần khuôn hình Quốc ngữ. Người Việt đã chủ động giã từ quá khứ văn tự Hán và bước ra biển lớn, hội nhập hệ hình ngôn ngữ ký âm với nhiêu ưu điểm vượt trội. Nhằm giã từ quá khứ “một cách vui vẻ”, người đương thời đã khắc phục sự đứt gãy văn hóa Hán bằng việc cho ra đời các bộ đại từ điển Hán - Việt (Đào Duy Anh), nghiên cứu tổng thành về Nho giáo (Trần Trọng Kim) và tập trung phiên dịch hầu hết nguồn di sản Hán Nôm dân tộc (thơ văn Lý - Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát...). Mặt khác, làn sóng tinh thần trên nền tảng chữ Quốc ngữ đã ào lên, tràn lên, vượt lên chiếm lĩnh, chuyển hóa, thay thế và xác lập thời đại văn hóa mới, lấp đầy khoảng trống quá khứ Hán Nôm.

Thực tế sự xuất hiện chữ Quốc ngữ có gây đứt gãy văn hóa nhưng được nhiều hơn mất, mới vượt cũ, tiến bộ vượt lạc hậu và mau chóng khẳng định thành tựu, địa vị. Học sinh phổ thông ngày nay cần thiết phải biết chữ Hán để tiếp thu đầy đủ và thuận tiện di sản văn hóa Hán Nôm của cha ông; nhưng điều đó chưa cấp thiết bằng việc trang bị cho các em những kỹ năng sống và kỹ năng làm việc “thời 4.0” cùng nhiều kiến thức thiết thực khác. Bởi vậy, đề xuất “học chữ Hán trong nhà trường phổ thông, từ bậc Tiểu học” chắc chắn không khả thi bởi không cấp thiết và thiếu nguồn lực giáo viên. Ngay như đội ngũ giảng viên các ngành văn hóa, văn học truyền thống dân tộc bậc đại học hiện nay còn chưa nắm vững chữ Hán. Do đó, việc “bổ túc” chữ Hán ở bậc phổ thông chỉ có thể dạy kết hợp, lồng ghép trong bộ môn ngữ văn. Ấy là chưa kể thực tế hiện nay, việc “giảm tải” chương trình giáo dục phổ thông đang là một vấn đề cấp thiết của cải cách giáo dục.

Mặt khác, hiện nay việc ứng xử với di sản văn hóa Hán Nôm lại rất cần ngành đào tạo Hán Nôm, cần các chuyên gia Hán Nôm bậc cao và các trung tâm nghiên cứu, dịch thuật Hán Nôm hiện đại, đẳng cấp khu vực và quốc tế. Đó cũng chính là cách khắc phục sự đứt gãy văn hóa truyền thống và tiếp nối, bù lấp khoảng trống văn hóa Hán Nôm trong thời đại mới.

Nhà văn Nguyễn Hữu Sơn

Nguồn Văn nghệ số 14/2023


Có thể bạn quan tâm