March 29, 2024, 11:02 pm

Cái duyên bắt đầu từ những ngọn sóng

 

Boong tàu lau xong sạch bóng. Toàn thể mọi người tập trung boong trước ăn sáng. Ăn xong, tôi cùng một số anh em cụm lại nghe đài tiếng nói Việt Nam. Hồi ấy, toàn phân đội, tàu nào cũng được phát một cái đài orionton để nghe tin tức, nghe chương trình ca nhạc vào những giờ nghỉ…

Tôi nhìn thấy cậu liên lạc tiểu đoàn từ trên bờ bước xuống cầu thang tàu rồi lên tàu. Như đã quen, cậu liên lạc chui vào khoang thuyền trưởng. Một lát sau, thuyền trưởng Nguyễn Hoàng Thiết cùng cậu liên lạc đi lên và tới chỗ chúng tôi. Thuyền trưởng Thiết nói với tôi: “Đồng chí Vinh, về phòng thay quân phục chỉn chu rồi lên tiểu đoàn có việc gấp”.

Tôi cùng cậu liên lạc đi lên tiểu đoàn đang đóng quân trong các nhà dân làng Hạ Đoạn. Vừa đi, tôi tò mò hỏi cậu liên lạc cùng cấp binh nhất: Cậu có biết tiểu đoàn gọi tớ lên là việc gì không? Hắn ta nói: Có ông bộ binh mang quân hàm trung úy (ngang cấp tiểu đoàn trưởng) đang trao đổi công việc chi đó. Thì cứ lên rồi biết.

      - Báo cáo tiểu đoàn trưởng, tôi binh nhất Nguyễn Quang Vinh, báo vụ tàu 171, tiểu đoàn 200, có mặt!

      - Rất tốt, tiểu đoàn trưởng nói rồi chỉ chiếc ghế trống đối diện trung úy bộ binh đang ngồi. Trung úy bộ binh có khuôn mặt rất tươi đã chăm chú nhìn tôi từ lúc tôi bước vô nhà và đứng nghiêm đưa tay chào theo quân lệnh.

Tiểu đoàn trưởng 200 vẫn ngồi yên trên ghế của mình.

Trung úy bộ binh quay nhìn sang tôi, nói: Tôi tên là Nguyễn Phúc Nghiệp ở báo Quân đội Nhân dân. Chúng tôi đã đọc mấy bản tin, bài của đồng chí gửi đến báo chúng tôi. Tòa soạn chúng tôi rất quý. Nhưng cánh hải quân ít bài lắm. Cánh bộ binh thì bài vở quá nhiều. Vì ít nên càng quý. Trung úy Nghiệp nói tiếp: Tôi vừa trao đổi với tiểu đoàn trưởng của đồng chí, là đồng chí Vinh đã có ý thức về đơn vị của mình, tuyên truyền việc làm tốt của đơn vị lên mặt báo. Chúng tôi nhận thấy qua những bài đồng chí gửi tới, đồng chí rất có khả năng. Nếu chịu khó trau dồi, cần mẫn học tập rồi viết nhiều hơn nữa, tương lai, đồng chí sẽ trở thành một nhà báo chuyên nghiệp.

Tôi lặng lẽ không biết nói gì.

Trung úy Nghiệp mở cặp rút ra một tờ giấy đã in sẵn, những hàng có dấu chấm chấm (…) cũng đã ghi rõ họ tên, tuổi, quê quán, đơn vị công tác của tôi. Ở phía dưới đã có đóng dấu đỏ của báo Quân đội Nhân dân và người ký có cấp hàm cao hơn trung úy Nghiệp. Trung úy Nghiệp nói tiếp: Chúng tôi muốn đồng chí Nguyễn Quang Vinh làm cộng tác viên của báo Quân đội Nhân dân, nếu đồng chí Vinh đồng ý thì ký vào đây. Trung úy Nghiệp đưa bút cho tôi, và tôi đã ký tên.

Từ đó, tôi thành cộng tác viên của báo quân đội Nhân dân Việt Nam. Khi đó vào khoảng gần cuối năm 1964.

Trên đường từ trụ sở tiểu đoàn về tàu, tôi nghĩ lại những bản tin, những bài báo đã gửi cho báo Quân Bạch Đằng (báo lưu hành nội bộ của Bộ tư lệnh Hải quân) và báo Quân đội Nhân dân. Tôi lẩm bẩm trong mồm: Ồ cái thằng Vê, dân biển Thanh Khê tham gia cuộc thi bơi lội “Vượt sông Bạch Đằng truyền thống toàn quốc”, giật được cái giải bét mà tòa báo Quân đội Nhân dân chú ý tới mình đến vậy ta?...

Sau đó không lâu, tôi được mời dự Hội nghị cộng tác viên của báo Quân Bạch Đằng. Từ bến cảng Hạ Đoạn cuốc bộ lên Hải Phòng, đến Bộ tư lệnh Hải quân phải mất hơn hai giờ đồng hồ. Trong số giảng viên có một trung úy, giảng viên chính, là phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân từ Thủ đô Hà Nội về giảng. Cuối giờ, trước khi tươi cười nói lời tạm biệt, ông nói: “Tòa báo Quân đội mong nhận được rất nhiều và rất nhiều... những bài báo tốt từ lớp tập huấn này”… Sau lần đó, tôi nhận được báo biếu, báo Quân Bạch Đằng rồi tiếp báo Quân đội Nhân dân in bài của tôi…

  •  

Chiến sự miền Nam giữa quân dân ta với đồng minh chính quyền Sài Gòn ngày càng khốc liệt. Chúng hay cho tàu nhỏ chạy nhanh vượt tuyến ra quậy, khiêu khích vùng biển Vĩnh Linh và phía Bắc đảo Cồn Cỏ. Rồi sự kiện vịnh Bắc bộ xảy ra. Phân đội có ba tàu, trong đó có tàu 171 của chúng tôi nhận nhiệm vụ vào ém ở cửa sông Gianh. Ôi gần nhà quá! Qua huyện Bố Trạch, qua thị xã Đồng Hới là tới quê tôi rồi….

Sự kiện lịch sử xảy ra với Hải quân nhân dân Việt Nam: vào khoảng 3h chiều ngày mồng 5 tháng 8 năm 1965, không quân Mỹ tập kích ra miền Bắc đánh phá 3 nơi: Cảng sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa) và Quảng Ninh. Ba tàu phân đội rời bến ra giữa sông Gianh. Tôi được lệnh bỏ máy trực vô tuyến điện lên boong chuyền đạn. Trước khi chuyền đạn cho khẩu đội pháo boong trước, tôi lên đài chỉ huy lắp máy bộ đàm lên đầu thuyền trưởng để nhận lệnh chiến đấu với phân đội trưởng đang trên một chiến hạm khác. Máy bay Mỹ lao tới. Chúng lượn một vòng trên quân cảng. Pháo tàu phân đội được lệnh nổ súng rần rần. Bốn phi cơ Mỹ lượn trắng bụng trên dòng sông Gianh và thi nhau phóng bom. Lúc ấy, tôi đang trên đài chỉ huy chưa kịp xuống boong tiếp đạn. Tàu 171 trúng bom khói đạn mịt mù trùm kín. Đồng chí lái tàu ngã xuống dưới chân tôi hy sinh. Thuyền trưởng nhảy qua cầm tay lái. Tôi bị thương ở đùi phải… Sau một giờ bắn phá, quân cảng sông Gianh đã bị đánh sập. Máy bay Mỹ đã rút. Hai tàu có chiến sĩ hy sinh, bị thương được lệnh cập cảng phụ làng Thuận Bài để nhờ địa phương an táng số quân hy sinh và băng bó thương binh. Tôi được lên bờ, chân đi cà nhắc. Một ông nông dân cao lớn xốc nách tôi lên lưng cõng vào một ngôi nhà cạnh bờ sông để y tá băng bó.

Số chiến sỹ an lành được lệnh lấy những thoi gỗ đã cất sẵn trong kho và búa ra nêm chặt hai mạn tàu bị nhiều lỗ thủng. Người bị thương nặng được lệnh ở lại địa phương chăm sóc. Tôi bị thương nhẹ, băng bó xong, tôi xin trở lại tàu. Nhìn hai mạn chiến hạm 171 như nhìn con nhím đang xù lông thế thủ trước địch thủ muốn tấn công mình. Đêm đó, tàu 171 được lệnh về đốc X46 Hải Phòng sửa chữa. Còn hai tàu của phân đội vẫn ở lại sông Gianh…

*

Cũng năm 1965, điểm mà không quân Mỹ ném bom đầu tiên xuống Hải Phòng là cầu Thượng Lý. Chúng muốn cắt đứt mạch giao thông đường bộ chính giữa hai thành phố lớn Hải Phòng – Hà Nội.

Tàu 171 sau khi sửa chữa đang hoạt động dài ngày ở một tọa độ xa được lệnh trở về Hải Phòng. Tàu vừa cập cảng đã nghe xôn xao máy bay Mỹ vừa đánh phá cầu Thượng Lý. Chúng tập kích bất ngờ. Nhưng lực lượng phòng không Hải Phòng đã cảnh giác. Rada ta phát hiện sớm đã cho nổ súng đón đầu nên chúng thi nhau bổ nhào, dội bom nhưng không trúng cầu mà trúng vào các nhà dân. Tin cho biết nhiều người bị thương và một bé gái chết cháy thiêu, tội lắm! Nhớ em bé bị chết cháy, tự nhiên tôi nhẩm hai từ “ngọn lửa”. Tôi nghĩ: lửa này không phải lửa đạn của quân thù mà là ngọn lửa căm hờn tột độ của nhân dân ta với quân đế quốc dã man! Và đêm đó tôi viết bài thơ Ngọn lửa, mà không viết bài cho báo. Bài thơ như sau                                                      

NGỌN LỬA

Em ngủ

Quyển sách gối đầu nâng giấc em ngoan

Anh nhìn em ngủ

Đôi tay trần trắng trong

 

Tối nay em ngủ sớm

Anh bảo cả nhà đi đứng nhẹ nhàng

Thương em theo trường sơ tán

Thứ bảy chiều qua em mới đạp xe về

 

Nhưng em tôi không thể nào dậy nữa

Ôi em tôi

Mới đây thôi

Với đôi tay trần trắng trong màu sữa

Giờ biến thành màu than

Mái tóc em mảng cỏ sém vàng!

 

Em ngủ?

-Không!

Em đã là ngọn lửa!

Tôi chép bài thơ gửi báo Quân đội Nhân dân. Đó là bài thơ đầu tiên trong cuộc đời văn nghiệp của tôi sau này.

Sang năm 1966, Hải Phòng nhiều nơi bị máy bay Mỹ bắn phá dữ dội. Nhất là chúng phong tỏa cửa biển bằng ngư lôi, bom từ trường, bom nổ chậm. Tàu buôn nước ngoài chỉ thả neo ngoài khơi xa mà không thể nào vào cửa Nam Triệu để cập cảng Hải Phòng. Binh chủng Hải quân có sáng kiến phá thông luồng lạch, bằng cách: Cho tàu nhỏ, chạy tốc độ cao kéo theo sợi dây cáp gây kích nổ. Thế là bom nổ chậm, bom từ trường, thủy ngư lôi cứ nổ đùng… đùng… đùng… theo sợi dây cáp dài cả trăm mét… Sự sống, cái chết chỉ trong gang tấc! Và tôi viết bài thơ Các anh đi thắp bình minh. Bài thơ được đăng ở tạp chí Cửa Biển thuộc Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng…

*

... Tôi về Trung đoàn 171 nhận lệnh mới: bổ sung vào phân đội mới ba tàu lên Hà Nội với nhiệm vụ bảo vệ cầu Long Biên lịch sử, chia lửa với quân dân Thủ đô chờ quân giặc tới! Và mười hai ngày đêm Điện Biên Phủ trên không đã diễn ra… Tàu tôi đậu phía bờ sông Hồng gần Bát Cổ Viện, tàu chỉ huy đậu gần cầu Long Biên phía Gia Lâm bắn máy bay bổ nhào, tàu thứ ba đậu phía trên làng Bắc Cầu bắn chéo cánh sẻ. Súng, pháo quân dân Hà Nội cùng nổ ran trời. Tôi lên boong trước chuyền từng băng đạn cho khẩu đội pháo 37 hai nòng… Mấy tháng sau trên báo Thủ đô có in bài thơ của nhà thơ Bằng Việt, có câu: “Tháng tám cầu nhô hai nhịp gãy” là nói về sự kiện này

Năm 1973, tin vui truyền đi mọi nẻo đường, mọi ngôi nhà: Ta đã buộc Mỹ ngừng ném bom trên toàn miền Bắc Việt Nam trong hiệp định tại Paris. Phân đội tàu chúng tôi trở lại Hải Phòng. Đơn vị cho tôi nghỉ phép 12 ngày về thăm gia đình ở Quảng Bình. Nhân cơ hội này tới thăm các anh chị trong Hội văn nghệ và Sở Văn hóa Quảng Bình. Trước đó, tôi đã gửi nhiều thơ về hai địa chỉ này và được đăng khá nhiều. Giờ tôi tới thăm mang quân phục hải quân, vai gắn lon thượng sĩ, gặp anh Xuân Hoàng, phó Chủ tịch trực Hội, tôi đặt vấn đề thẳng với anh là muốn chuyển ngành về Hội. Nhà thơ Xuân Hoàng lại cười ha hả, nói: “Mai đến đúng giờ nghe”...

Tôi cầm tờ tiếp nhận nhân viên mới có chữ ký, đóng dấu đỏ của Ban thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, về đơn vị…

*

Tôi về Hội văn nghệ Quảng Bình chừng được nửa năm, cơ quan Hội cho đi học lớp bồi dưỡng viết văn (Khóa 7) thuộc Hội nhà văn Việt Nam sắp mở tại Hà Nội. Mới học được mấy tháng, bất ngờ Huế giải phóng. Rồi Sài gòn giải phóng (30/04/1975), số học viên ở các tỉnh phía nam xin nhà trường về thăm quê, có người không trở lại trường. Khóa học vợi bớt...

Trở về cơ quan Hội văn nghệ Quảng Bình, đã nghe kế hoạch nhập tỉnh Bình Trị Thiên, và đầu năm 1977 chúng tôi là hội viên Hội văn nghệ Bình Trị Thiên. Hội ra tập san Văn nghệ Bình Trị Thiên, Ba tháng một số. Tôi tham gia bằng bài viết đầu tiên về hợp tác xã Thủy Dương, đơn vị làm ăn khá, được thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng bí thư Lê Duẩn về thăm. Thủy Dương là quê hương anh Phùng Quán. Bài viết có tên Ghi chép trên quê hương anh Phùng. Đó là bài viết đầu tiên của tôi ở cương vị này. Đến tháng sáu năm 1983 thành lập tạp chí Sông Hương, tôi được Hội nhà báo Việt Nam cấp thẻ nhà báo để đi viết bài. Tôi thực sự trở thành nhà báo chuyên nghiệp từ một người lính hải quân từ lúc đó

Hơn 30 năm gắn bó với nghề báo, lúc xuống biển, khi lên rừng, cuộc đời trải lắm vui buồn, nhưng mỗi khi nhớ lại, chưa bao giờ nguôi ngoai cảm xúc về những ngày gắn bó với con tàu 171, sau này là Trung đoàn 171 của Hải quân Nhân dân Việt Nam. Cho đến tận bây giờ, lần nào tôi từ Huế về làng, gặp ai đều nhận được những nụ cười thâm tình và tay bắt mặt mừng. Họ chào tôi không bằng tên cúng cơm mà bằng tên danh dự và nghiệp vụ của những người làm báo: chào Nhà báo. Vâng. Nhà báo. Mỗi người đến với công việc viết báo đều có cái duyên của nó. Với tôi, cái duyên đó bắt đầu từ những ngọn sóng, mà đến tận bây giờ, mỗi khi nghe từng biến động ngoài khơi, là lại thấy cồn cào…

Nguồn Văn nghệ số 29/2019


Có thể bạn quan tâm