April 24, 2024, 10:23 pm

Bóng ô cuối làng

Quãng giữa thế kỷ trước, nếu có họa sỹ nào về quê chiếu Nga Sơn vẽ cảnh làng tôi, có lẽ chỉ cần dùng hai màu: xanh, đen. Chỉ cần tô lên nền toan hai mảng màu xanh nối nhau: mảng xanh trên là màu xanh chân trời, mảng xanh dưới là màu xanh của cói. Trên là trời xanh, dưới: biển cói cũng màu xanh, gió thổi dạt dào như sóng biển. Giữa đường kẻ chỉ, nối tiếp mặt đất với bầu trời, hãy thả xuống một giọt mực tàu, chỉ một giọt thôi, tạo một chấm đen. Đúng vậy. Giữa hai tầng xanh của trời và đất, chỉ cần thêm một chấm đen thôi, người làng tôi bảo: đấy đúng là phong cảnh làng mình.

Chấm đen trên nền màu xanh sẽ được dân làng tôi hiểu đó là hình chiếc ô của ông ngoại tôi, sớm chiều xuất hiện trên con đê cuối làng.

 

Minh họa của ĐẶNG TIẾN

 

Có lẽ trên đời, chưa ai đi chậm như ông tôi. Ông đi chậm vì mặt đê ngày nắng thì gập ghềnh sống trâu, ngày mưa thì bùn lầy trơn như đổ mỡ. Biển rút ngày một xa, con đê mỗi năm một thấp. Người đồng cói chỉ làm nhà thấp mái để tránh bão biển. Vì vậy mà quê tôi nhìn đâu cũng chỉ thấy cói, chẳng thấy nhà. Cói lên cao, mặt đất tuyền một màu xanh ngăn ngắt. Những buổi trời trong xanh, gió nổi, cói lùa, chẳng còn nhận rõ đường kẻ chỉ chân trời.

Giữa những cánh đồng xanh ấy, ngày ngày, ông tôi hai buổi đi về. Ông cầm ô chậm rãi bước. Những cánh đồng cói xanh như bất tận. Ông đi chậm lắm. Chậm vì chiếc đẫy đựng thuốc của ông nặng lệch một bên vai. Chợ Huyện một tháng 4 phiên, chợ Hói Đào, chợ Hôm Giún cứ ba ngày lại họp một lần. Vì vậy mà ngày nào ông tôi cũng đi chợ. Có điều ông tôi đi chậm quá. Người làng cứ thấy ông tôi đi chợ về, ở đầu con đê, là không cần xem đồng hồ nữa, gọi nhau đi nấu cơm chiều. Vậy mà nhiều buổi nấu xong rồi, dân làng vẫn thấy chiếc ô đen ông tôi trên đê. Chiếc ô đen cứ lừ lừ trôi, có lúc đứng lại như dấu chấm hỏi cuối chân trời. Những người già có chữ nghĩa trong làng bảo rằng: Ông tôi đi bằng tốc độ của thời Tiền Lê, ông tôi đi chậm không phải chỉ vì đường trơn, đẫy nặng, chiếc ô cũng nặng, mà còn vì nặng những điều u uẩn trong đầu.

Ông nội tôi mất từ hồi đầu thế kỷ, vì vậy khi lớn lên tôi chỉ biết có một người ông duy nhất trên đời. Tôi yêu ông ngoại tôi, tự hào về ông lẫn chiếc ô của ông. Ông tôi là thầy lang nổi tiếng một vùng vì hiền lành, nho nhã. Nhà ông tôi là một ngôi nhà cổ, cột gỗ lim tôi ôm không xuể nhưng tường gạch bao đã bị nước mặn ăn vào, lở đỏ. Những bức tường long lở là chứng tích hủy hoại của một cơn hối đông, nay ta quen gọi là sóng thần, ập vào tàn phá vùng biển Nga Sơn. Ngôi nhà lặng lẽ nép mình giữa những hàng dừa nặng nề và một vườn đào. Mỗi lần ra thăm ông, anh em tôi thường thọc tay vào các hốc tường tìm trứng chim sẻ. Những đàn chim sẻ làm tổ quanh nhà ông, kêu lách chánh suốt ngày, nhiều buổi làm ông tôi mất ngủ. Chơi với bầy chim chán chê, chúng tôi lại lấy trộm chiếc ô của ông ra nghịch. Tôi chưa thấy chiếc ô nào nặng và to đến vậy. Bốn anh em chúng tôi, hai nội, hai ngoại của ông, ngồi dưới chiếc ô, ngửa mặt nhìn lên mà cứ hình dung như đang ngồi dưới một vòm trời riêng. Bốn anh em cầm chung chiếc ô, cứ nhè lúc mưa to để đi ra bờ ao tìm cá rô lóc. Nhiều buổi gió lớn, bốn anh em đánh vật với chiếc ô, giống như những thủy thủ đánh vật với cánh buồm.

Vào những năm 60, tết năm nào tôi cũng đón giao thừa rồi ở lì nhà ông. Hình như thời ấy người lớn chuẩn bị đánh Mỹ nên trẻ con rất thích cuốn pháo và chơi trò súng diêm. Có một lần tôi và mấy đứa em con cậu, cháu nội ông tôi, phát hiện trên gác nhà có mấy thứ giấy phất diều và cuốn pháo rất tuyệt. Loại thứ nhất là một loại giấy vàng, đưa lên mắt thấy trong trong, mờ mờ như những tấm bánh đa sống. Loại ấy dán vào khung diều, phết nhiều nhựa cậy, nhựa sung sẽ dai như da trâu, diều lên, gió biển giật mạnh mấy cũng không rách. Tiếng sáo diều cứ vi vu, than thở suốt đêm, nghe như tiếng ma kêu quỷ khóc. Loại thứ hai là loại giấy xôm xốp, kiểu như giấy bổi, không thể phất diều, nhưng quấn pháo thì rất tuyệt. Anh em chúng tôi dùng thứ giấy bổi đó nhuộm màu bằng nước hạt mùng tơi chín, phơi khô rồi mới cho bột diêm vào trong, cuốn pháo. Cả làng không đứa nào có những quả pháo cối đẹp và nổ to như pháo anh em tôi cuốn. Mỗi lần nổ, xác pháo tơi vụn, không sót cục, tung lên trời như vỡ tổ một đàn ong tím.

Nhưng rồi một buổi nọ, ông gọi mấy anh em tôi đến ngồi quanh ông, “hỏi tội”. Ông hỏi: “Có biết gì đây không?” - “Thưa ông, chữ nho ạ” - “Biết là chữ, sao xé của ông”. Tôi lớn nhất, tỏ ra hiểu biết hơn nên nhanh nhảu trả lời: “Chúng cháu tưởng loại sách phong kiến này chết rồi, không cần nữa”. “Trường dạy cháu thế à?”. Ông tôi thở dài, run run lật mấy trang cuối của cuốn sách bị anh em tôi tàn phá. Ông vừa đọc thầm thì vừa nói như nói cho một mình nghe: “Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông…. Còn đâu nữa, xé hết của ông rồi, đây là Đoạn trường tân thanh ông chép tay. Bản chép tay của tôi đây. Bây giờ làm gì còn loại giấy này!”.

Tôi sững sờ khi nghe ông đọc câu thơ có 2 tiếng hoa đào. Chắc chắn là thầy cô nào đó đã có lần đọc cho chúng tôi nghe câu thơ hoa đào năm ngoái rồi. Thằng em bé nhất trong đám chúng tôi ngoan ngoãn rút trong túi ra mấy tờ chưa kịp giấu: “Trả ông này”. Ông tôi đau đớn ghép mấy trang giấy trở lại đúng chỗ nằm của nó trong cuốn sách. Tôi thương ông, ân hận nhưng cũng lần đầu tiên biết được rằng sách chữ nho đọc ngược.

*

Vào cuối những năm 60, bom Mỹ bắt đầu dội xuống quê tôi mỗi ngày một nhiều. Có lẽ hạm đội 7 của Mỹ ở ngay trước cửa biển làng tôi, vì vậy mỗi lần bay vào đất liền đánh phá, trở về hạm đội, còn sót quả bom nào bọn giặc lái lại trút xuống mấy xã vùng tôi để hạ cánh cho nhẹ. Không có mục tiêu quân sự nào cho máy bay địch ném bom, nhưng vùng quê tôi ngày nào cũng có tiếng bom nổ. Làng tôi hầu như tháng nào cũng có tang. Đó là những đám tang không kèn trống, vì là những đám báo tử từ chiến trường hoặc là những đám rước ra nghĩa trang vội vàng, bí mật, khoảng chiều tối, không để lộ mục tiêu cho máy bay phát hiện. Bọn trẻ chúng tôi lớn lên trong bom đạn. Ngày tết, chúng tôi không cuốn pháo đón giao thừa và bắn súng diêm nữa. Mấy quả pháo tép ăn nhằm gì. Chúng tôi dùng thuốc bom, chế mìn, làm bộc phá đón giao thừa và lần lượt lên đường tòng quân.

Chợ quê tôi họp thưa dần. Ông tôi đi cũng mỗi ngày một chậm. Duy có điều chiếc ô của ông tôi không bao giờ khuất hẳn phía chân trời. Nhìn thấy chiếc ô, dân làng vẫn nhắc nhau đến giờ nhóm lửa. Nhìn chiếc ô lặng lẽ trôi trên con đê biển, dân làng có được cảm giác bình yên. Nhiều người thì thào rằng, ông tôi là người dũng cảm, ông cầm ô ngang nhiên trên đê là cố ý thách thức bọn giặc lái Mỹ, nêu gương dũng cảm cho dân làng. Nhưng cũng có mấy gã nổi tiếng tinh quái trong làng thì bình luận rằng: ông không sợ bom là do nặng tai. Nghe tiếng nổ rất nhỏ, đã thế lại chân chậm mắt mờ, biết bom rơi chỗ nào mà tránh... Mặc cho người ta bình luận, ông tôi vẫn đi chợ, bắt mạch, kê đơn và bán thuốc chịu cho những người ít tiền.

Thấm thoắt mấy lần đón giao thừa, tôi đã thành người lớn. Tôi tốt nghiệp cấp 3, nghe mấy thầy cô xui, thi đỗ luôn vào Khoa Văn - Tổng hợp. Tôi đã nhớ và nhận ra câu thơ xưa ông đọc trong cuốn sách bị xé làm pháo là một câu Kiều, và cuốn sách chính là một bản Kiều Nôm…

Năm 1970, tôi nhập học đại học, trường tôi chưa có ngành Hán Nôm. Năm thứ nhất chưa được học văn học Việt Nam trung đại, nhưng chẳng rõ nghe lỏm từ ai, tôi đã biết câu Kiều “hoa đào năm ngoái” có vết tích Đường thi. Hết năm, nghỉ hè, tôi hăm hở về thăm ông để khoe với ông vốn kiến thức uyên bác mới đánh thó được.

   Ấy là một chiều mùa thu năm 1971. Vừa về tới nhà, không đợi bố mẹ giục, tôi đã ra thăm ông. Ông ốm đã mấy phiên chợ liền, dân làng ai cũng biết. Trước lúc trông thấy ông, tôi đi xuyên qua vườn đào. Vườn đào mùa xuân năm ngoái rực nở như một giấc mơ hồng, mùa thu năm nay chỉ thấy lá cành ủ rũ. Bước vào giường ông, tôi thấy ông nằm một mình, mắt nhìn đờ đẫn. Phải nhắc đi nhắc lại mấy câu liền, ông tôi mới biết tôi là cháu đến thăm. Thế rồi, ông nằm, cháu ngồi, tôi nói to như quát. Một lúc sau tôi đọc cho ông nghe mấy câu thơ Đường. Vừa nghe đến câu “nhân diện bất tri hà xứ khứ”, ông tôi liền ngồi nhỏm dậy, tỉnh táo, nhanh nhẹn như một trung niên. “Không ai đọc thế, không đọc thế!” Ông tôi xua tay, kêu lên, đôi mắt đang mệt mỏi là vậy mà thoắt đã ngả màu xanh - màu xanh lá đào. Ông nhanh nhẹn phất tay chỉ lên trần nhà: “Thơ ấy là thơ Thôi Hộ, không phải Thôi Hiệu. Hai vị khác nhau đấy. Ông vẫn còn Đề đô thành nam trang, bản đủ đây mà. Cháu leo lên thang. Đi lối này, lấy thùng sách trong cùng xuống đây cho ông!”. Tôi làm theo lời ông, kéo chiếc thang leo lên gác sách. Có lẽ vì tôi không phải là cháu nội, tôi không được biết hết những bí mật của ngôi nhà? Tôi băn khoăn tự hỏi. Đây là lần đầu tiên tôi được biết cái thế giới sách của ông trên căn buồng áp mái.

- Nhà rộng sao ông không để sách dưới này, đọc cho tiện. Làm sao ông còn sức leo lên cao, dễ ngã lắm?

- Vì ông sợ bão biển, sợ những trận hối đông, nước vào ngập sách.

- Đài dự báo thời tiết, biết, chạy vẫn kịp. Mà biển xa rồi ông ơi.

Ông tôi ngần ngừ giấy lát rồi nói nhỏ:

- Ông không sợ biển, nhưng sợ… người.

- Người nào, ai cấm ông đọc sách Nho?

- Họ còn sống cả đấy - Ông tôi tư lự rồi ngân nga bài thơ Mạn thuật của Nguyễn Trãi mà mãi sau này tôi mới tìm được văn bản đầy đủ: “Thủng thẳng chiều hôm dắt tay/ Trông thế giới phút chim bay/ Non cao non thấp mây thuộc/ Cây cứng cây mềm gió hay/ Nước mấy trăm thu còn vậy/ Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này/ Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết/ Bui có lòng người cực hiểm thay… Nhưng mà thôi, lớn nữa, học nữa rồi cháu hiểu.

Từ nhà ông trở về, tôi hơi tự ái. Tôi là sinh viên rồi mà ông vẫn coi tôi là chưa lớn. Ông ngoại lại giống mẹ tôi, lúc nào cũng: lớn lên “khắc biết”. Nhưng tôi cũng chẳng còn thời gian  mà tự ái lâu. Vì mấy ngày sau tôi nhận được bức điện báo từ Đại học Tổng hợp Hà Nội rằng: đã trúng tuyển nghĩa vụ và có Quyết định ngày ra tập trung nhập ngũ.

Ngày tôi lên đường, tôi không có ảnh ông mang theo. Ông lấy bút lông, viết tặng tôi một chữ. Chữ ông viết trên giấy bình dân, mực hút rất đậm nhưng chữ  không đẹp. Ông thương thằng cháu ra trận hay vì già yếu rồi mà tay ông run thế! Cầm tờ giấy nhét vào áo ngực, tôi cứ đinh ninh đấy là chữ “Thắng”, theo thói quen chúc người ra trận. Mãi sau này tôi mới biết đó là chữ “Phúc”, hàm ý Trở về. Cầm mẩu giấy và mang chữ “thắng” trong đầu, tôi thầm hứa với ông, nếu ra trận chiến thắng trở về, tôi sẽ học Hán văn để kế thừa cái thư viện bí mật của ông trên gác.

Vào những ngày chống giữ thành Quảng Trị, sợ không may lúc chết xác mình thành xác lính vô danh, tôi ghi họ tên, cha mẹ cùng quê quán mình vào mặt sau chữ Phúc, rồi cho vào lọ thủy tinh, đút túi ngực. Chữ “thắng” của ông đã lặng lẽ nằm trên ngực tôi qua từng trận đánh. Tôi chết hụt hàng chục lần, bị thương 3 lần, nhưng rất may là lọ thủy tinh của tôi vẫn không bị moi ra chôn theo xác.

Sau một năm ở chiến trường, tôi không nhận được tin nhà. Mùa hè năm sau, tôi được ra Bắc, điều trị lành vết thương, thành người khỏe mạnh. Tôi viết thư về thăm ông, cám ơn ông đã ban cho tôi tấm bùa hộ mệnh giữa chiến trường. Thư vừa gửi đi, ngày hôm sau tôi đã nhận được thư bố tôi viết. Nhưng đó không phải là thư trả lời, mà là lá thư viết gần một năm trước. Đọc thư, tôi chết lặng người. Ông tôi mất rồi, mất gần một năm rồi! Tôi đã mất ông từ ngày 10 tháng 5 âm lịch, năm trước… Đêm hôm đó, vừa lau nước mắt, tôi vừa viết thư cho bố, hỏi lại xem ông mất thế nào. Mươi ngày sau, qua đường quân bưu, tôi nhận được thư. Trong thư, có đoạn bố tôi kể rõ:

… Ông mất vì tuổi cao, nhưng cũng một phần do ông tiếc của. Có lẽ con đoán biết rồi, từ lâu mắt ông đã lòa không còn đọc sách được nữa. Cầm sách, ông đọc theo trí nhớ, chứ không nhìn rõ nét chữ. Nhiều buổi ra thăm, bố gặp ông cứ cầm sách mân mê, lật từng trang rồi ứa nước mắt. Rượu chả uống được, sách chả đọc được. Khổ nhất là khi có lệnh sơ tán máy bay, dọn đồ đạc, mấy thùng sách của ông không cánh mà bay đâu mất. Bố bảo ông không đọc được thì để người khác đọc. Bọn trộm sẽ bán cho người hay chữ. Nhưng ông bảo rằng chúng nó sẽ đem cuốn pháo, làm giấy lộn. Không ai khuyên giải được ông. Dao cầu, thuyền tán, thuốc nam, thuốc bắc, ông vứt hết. Ông đổ bệnh, nằm hàng tháng, đến khi hồi phục, đi không vững mà vẫn lò mò đội ô đi tìm sách, lội cả xuống những đồng cói quanh nhà, hy vọng kẻ trộm đang còn giấu, chưa kịp tẩu tán. Ông bị cảm lạnh, ngã giữa đồng, chiếc ô bung hết gọng, bệnh sưng phổi quật trở lại. Lần này thì không thể cứu chữa nữa con ạ. Ông coi sách là tất cả đời ông thì phải…

Tôi không đủ sức đọc lại bức thư một lần nào nữa. Mấy tuần sau, tôi nhét bức thư thêm vào chiếc lọ có chữ “Phúc” của ông, lên đường cùng đơn vị trở lại mặt trận. Dọc đường hành quân, nhiều lúc tôi lê bước, nặng nề, vi có cảm giác ngực mình nặng trĩu vì có thêm lá thư của bố. Lá thư có trọng lượng của một bài học lịch sử.

Chiến tranh kết thúc lâu rồi. Ông tôi, rồi đến bố tôi, lần lượt không ai còn lại trên đời. Đến nay tôi cũng đã bước vào tuổi ông, như ông tôi khi xưa. Vậy là câu chuyên của ông tôi, của cha mẹ tôi đã trở thành chuyện của những người muôn năm cũ, thuộc về thế kỷ qua rồi. Vậy mà mấy chục năm qua, không biết bao lần, trong mơ, tôi vẫn thấy chiếc ô đen của ông phía chân trời Nga Sơn quê mình.

Có phải hồn người xưa hiện về? Có phải ông tôi đang lang thang đi tìm chỗ ngủ, đi tìm bản Kiều Nôm rách nát của mình!

Nguồn Văn nghệ số 26/2020

 


Có thể bạn quan tâm