March 29, 2024, 8:23 am

Bác Hồ và khát vọng trí thức hoá giai cấp công nhân

 

Kỷ niệm 74 năm Quốc Khánh 2/9 và 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lúc Việt Nam đang vươn mình hiện đại hóa đất nước với sức tăng trưởng liên tục cao, không chỉ trong tiềm lực kinh tế mà cả tiềm lực quân sự, an ninh, cùng sự phát triển văn hoa xã hội; Đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí, đổi mới thể chế, đổi mới công nghệ, tạo nên vị thế cao trong hội nhập toàn cầu; điều mà trong bản Tuyên ngôn Độc Lập, Bác đã khẳng định với thế giới ý chí và quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm mỏ than Đèo Nai, tháng  3/1959. Ảnh TL

Cùng với bản Di chúc để lại cho toàn dân, Bác Hồ còn để lại cho giai cấp công nhân Việt Nam, mà cụ thể khi đó là công nhân và cán bộ ngành Than và nhân dân Quảng Ninh một bản “di chúc riêng”, đó là văn bản bài nói chuyện thân tình, sâu sắc của Người ngày 15/11/1968 với mong muốn “... Đẩy mạnh ngành Than trở thành một ngành gương mẫu và tỉnh Quảng Ninh trở thành một tỉnh giàu đep”. Vì sao trong cương vị Chủ tịch nước, Bác Hồ luôn dành những tình cảm rất đặc biệt cho thợ mỏ? Tìm hiểu kỹ vấn đề này, chúng ta dễ dàng nhận ra khát vọng Hiện đại hóa đất nước, Trí thức hóa giai cấp công nhân, mà khởi đầu là trí thức hóa những người thợ mỏ khi đó của Người

 

ĐỒNG TÂM SÁNG TẠO KHÔI PHỤC SẢN XUẤT

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng giới trí thức, thu hút nhân tài để tạo ra sức mạnh mới của cả dân tộc nhanh chóng “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Đông đảo nhân sĩ, trí thức bao gồm cả nhiều Việt kiều nổi tiếng đã vui vẻ chấp nhận mọi thiếu thốn, khó khăn hòa nhập với khối công nông binh, góp sức cho đất nước độc lập tự do, tạo nên những kỳ tích trong hai cuộc chiến tranh và tái thiết đất nước đưa một Việt Nam nông nghiệp lạc hậu, nghèo đói mạnh mẽ tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập toàn cầu.

Sau khi giải phóng Thủ đô 10/10/1954, Bác Hồ đã trực tiếp chỉ đạo việc khôi phục các nhà máy điện, khôi phục hệ thống giao thông và việc cung ứng than từ Mạo Khê và Thái Nguyên. Bác yêu cầu được nghe báo cáo đầy đủ về tình hình Vùng Mỏ và Cảng Hải Phòng đang ở trong khu vực tập kết của người Pháp, sau 300 ngày ta mới được tiếp quản theo hiệp định Giơneve. Bác đặt tên mới cho Vùng Mỏ là Đặc Khu Hồng Quảng, chọn ông Trịnh Nguyên, từng là đại đội trưởng đại đội Hồ Chí Minh của thợ mỏ từ tháng 12 năm 1946, làm Chủ tịch ủy ban kiêm lãnh đạo Ngành Than chuẩn bị lực lượng giải phóng khu mỏ và khôi phục dây chuyền sản xuất than. Bác nói với ông Trịnh Nguyên: - Đầu năm 1947 Bác nhận được báo cáo của tướng Nguyễn Bình từ Đệ Tứ chiến khu (chiến khu Đông Triều) về chiến thắng đầu tiên của Đại đội Hồ Chí Minh của thợ mỏ tiêu diệt đồn Hà Lầm đêm 25 tháng 12 năm 1946, Bác rất vui và không trách các chú tự tiện đặt tên mà không xin phép vì Bác biết thợ mỏ yêu quý Bác, tin tưởng Bác nên mới mượn vía Bác ra oai với giặc. Đây là đơn vị duy nhất mang tên Bác, chú hiểu chứ!

Ông Trịnh Nguyên lễ phép: - Thưa Bác, toàn dân đều gọi bộ đội là Lính Cụ Hồ.

Bác cười: - Chú nghĩ khéo! Bác giao trọng trách cho chú vì nhiều người nói chú thông minh, sáng tạo, sống giản dị, chân tình, biết lắng nghe mọi người từ việc lớn đến việc nhỏ. Chắc chắn người Pháp sẽ thảo dỡ mang đi nhiều thiết bị và phá hoại dây chuyền sản xuất than, các chú phải ra sức vận động công nhân và nhân dân đấu tranh giữ lại cho bằng được những thiết bị khai thác, vận chuyển, sàng tuyển, bốc rót... đặc biệt là những máy xúc ô tô vận tải lớn do Mỹ sản xuất. Cần vận động những nhân viên làm việc cho người Pháp ở lại, nhất là những người theo đạo Thiên Chúa không di cư vào Nam, bảo đảm với họ vẫn được chính quyền mới trọng dụng. Cần tạo nên sức mạnh đoàn kết đồng tâm sáng tạo của công nhân và toàn dân đồng thời thuyết phục những kỹ sư, viên chức Pháp tiến bộ ủng hộ chúng ta. Bác tin họ cũng là những người biết điều.Các chú phải thường xuyên báo cáo cho Bác mọi diễn biến của Khu Mỏ...

Nhờ thực hiện nghiêm túc những chỉ thị của Bác Hồ, công nhân các mỏ than đã kiên trì đấu tranh không cho chủ mỏ Pháp tháo dỡ các thiết bị khai thác cơ khí, phải để lại nguyên vẹn chiếc máy xúc Bisuris A1/7 cùng đội xe Eclis hiện đại nhất của Mỹ thập niên 1950 cùng nhiều máy xúc máy khoan khác. Ngày 25/4/1955 những chiếc tàu há mồm chở những người Pháp cuối cùng rời khỏi bến Hòn Gai, bộ đội ta tiến vào tiếp quản Khu Mỏ giữa tiếng hò reo vang trời của hàng vạn thợ mỏ. Tuy nhiên hệ thống vận chuyển đường trục, tàu điện, nhà sàng, bốc rót và hệ thống điện bị phá húy khá nặng nề. Bác chấp nhận cho phép đàm phán thuê các kỹ sự Pháp giúp khôi phục, họ nhận lời với thời hạn hai năm. Bác lắc đầu: - Hai năm là thời hạn tổng tuyển cử thống nhất nước nhà theo hiệp định Giơneve, sao họ khéo nghĩ cách kìm chế nước ta vậy nhỉ? Bác vỗ vai ông Trịnh Nguyên: - Chú nghĩ sao, hai tháng có khôi phục sản xuất được không? Ông Trịnh Nguyên đáp ngay: - Chúng cháu sẽ cố gắng làm bằng được ạ! Bác cười: - Chú hứa thì Bác tin. Bác cho chú toàn quyền quyết định mọi việc, cần gì chính phủ đáp ứng ngay. Trước hết Bộ Quốc Phòng và Thành phố Hà Nội sẽ cử về Khu Mỏ nhiều sĩ quan, lái xe, công nhân cơ khí, lái xe giàu kinh nghiệm đã được thử thách trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Bác đã giao cho Bộ Văn Hóa lựa chọn những văn nghệ sĩ, nhà báo nổi tiếng cùng về làm than với thợ mỏ, sáng tác và đào tạo nhân tài cho Khu Mỏ. Bác nhắc chú cần động viên khích lệ những nhân viên lưu dung và thợ bậc cao do Pháp đào tạo, sử dụng họ đúng việc, bình đẳng công bằng với gia đình họ, không để họ mặc cảm, suy tư mà sinh ra tiêu cực là lãng phí người tài, đào tạo bao giờ cho đủ.

 Đúng như chỉ đạo cuả Bác Hồ, ngày 2/9/1955 chuyến than đầu tiên của Khu Mỏ Hồng Quảng đã về đến nhà máy điện Yên Phụ-Hà nội và nhà máy xi măng Hải Phòng. Bác điện khen cán bộ công nhân và quân dân Khu Mỏ và hứa sẽ về thăm Hòn Gai-Cẩm Phả khi đạt và vươt được sản lượng cao nhất của tư bản Pháp ở Việt Nam.

 

MUỐN CƠ KHÍ HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA, PHẢI TRÍ THỨC HÓA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

Sau hơn ba năm nỗ lực thi đua lao động sáng tạo quên mình với sự cổ vũ chi viện của đồng bào chiến sĩ cả nước, Ngành Than đã vượt qua sản lượng một triệu tấn than mà Người Pháp đạt được vào năm 1939, là năm thịnh vượng nhất. Ngay 31/3/1959, Bác Hồ đã về thăm Mỏ than Đèo Nai. Bác nhanh nhẹn đi bộ dọc các tầng than, thăm hỏi từng người. Bác say sưa ngắm nhìn chiếc máy xúc A1/7 của Mỹ đang vung chiếc gầu xúc dung tích 4,6 mét khối, nhẹ nhàng đổ lên thùng xe Eclis 28 tấn, cũng là hàng độc của Hoa Kỳ. Bác khen ngợi công nhân cán bộ Đèo Nai đã kiên trì dũng cảm mưu lược giữ lại được nhiều thiết bị quý, khôi phục hệ thống đường trục chở than rất nhanh. Sắp tới, các mỏ than Đèo Nai. Cọc Sáu, Hà Tu sẽ có thêm nhiều thiêt bị hiện đại của Liên Xô bổ sung, đưa công suất mỗi mỏ lên một triệu tấn/năm. Các cô các chú đã thực sự trở thành chủ nhân của một mỏ than hiện đại, cần phải ra sức học tập, tự nâng cao tri thức, thành thục quy trình mới, điều khiển tốt thiết bị ngày càng hiện đại. Chính Phủ đã quyết định mở Trường Trung cấp Kỹ thuật Mỏ tại Hòn Gai, cùng với việc tuyển sinh cả nước, trường sẽ ưu tiên đào tạo thợ mỏ xuất săc, các cô các chú cần tích cực học bổ túc văn hóa để có đủ trình độ vào học Trung cấp mỏ, rồi đại học mỏ trong nay mai...

Đứng trên đỉnh Đèo Nai, Bác Hồ lấy khăn vắt vai lau mồ hôi, ngắm thị xã Cẩm Phả uốn quanh vịnh Bái Tử Long kỳ vĩ thơ mộng. Bác chợt nhận ra tháp nhà thờ Cẩm Phả, nhà thờ Núi Trọc. Bác ưu tư suy ngầm điều gì đó rất lâu. Sau, khi làm việc với lãnh đạo Khu ủy và Ngành Than, Bác mới chậm rãi nói: - Tư bản Pháp sang đây vơ vét tài nguyên, bóc lột tàn bạo, vậy mà vẫn biết chăm lo phần hồn, xây nhà thờ Thiên Chúa giáo khắp nới, cả trên núi mỏ. Phải công nhận nhà thờ nào cũng cao đẹp, khang trang. Chúng ta không lo phần hồn cho bất cứ ai, nhưng chúng ta phải đặc biệt quan tâm cải thiện đời sống vật chất và đời sống văn hóa cho thợ mỏ và mọi ngành, mọi người ở Khu Mỏ. Cần có nhiều trường học, thư viện, bệnh viện, cung văn hóa, nhà văn hóa… đầy đủ tiện nghi; phải lo đủ nhà ở tốt, điện nước tốt cho các khu tập thể cùng nhà trẻ, mẫu giáo và khu vui chơi giải trí trong các mỏ mới thực sự đổi đời cho thợ mỏ. Các bạn Liên Xô hứa sẽ trang bị thêm cho khu mỏ hệ thống phát thanh, truyền thanh, thông tin liên lạc hiện đại. Bác nghe nói có nhiều người thích chiếc loa Liên Xô có chiết áp vặn to nhỏ. Các chú thưởng cho những người thợ có năng suất cao những chiếc loa ấy, họ sẽ rất phấn khởi…

Bác Hồ lắng nghe mọi ý kiến của lãnh đạo khu ủy và Ngành Than. Người nhấn mạnh: - Ngày trước Đảng tổ chức cho anh chị em trí thức đi “Vô Sản Hóa” mới giúp nổ ra cuộc đình công long trời của hơn hai vạn thợ mỏ, buộc chủ mỏ và chính quyền Pháp phải tăng lương, giảm giờ làm, bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Nay Đảng của giai cấp công nhân chủ trương đào tạo trí thức ngay trong đội ngũ tiên phong mà thợ mỏ, là sự khởi đầu cho công nghiệp hóa, cơ khí hóa, hiện đại hóa, rồi mở rộng ra cả nước. Khu ủy và Đảng bộ Ngành Than phải luôn luôn tự rèn luyện, tu dưỡng, cùng trí thức hóa với thợ mỏ, nếu không chính họ sẽ đào thải các đồng chí. Những cán bộ nào cần đào tạo thêm thì mạnh dạn cho họ đi học, trươc hết là Trường Trung cấp kỹ thuật mỏ…

Tôi (VKN) và nhà văn Dương Thị Xuân Quý may mắn thi đỗ vào học khóa đầu của ngôi trường này cùng với nhà văn Nguyễn Sơn Hà và nhà văn Sĩ Hồng. Chúng tôi vừa học vừa tự đóng gạch xây dựng trường và còn phải bổ túc thêm cho số công nhân mỏ được cử đi học. Họ tiến bộ rất nhanh, chỉ sau một năm đã có 46 người được về trường Đại Học Bách Khoa bồi dưỡng, rồi sang Liên Xô học đại học. Trường Trung cấp Kỹ Thuật mỏ đã cung cấp cấp cho Ngành Than và đất nước hàng ngàn cán bộ có chất lượng cao, vì chương trình nhiều môn học lúc đó lấy từ chương trình đại học mỏ của Liên Xô, như máy khai thác, vận tải mỏ, công nghệ khai thác lò giếng đứng, sức bền vật liệu… Điều làm nhiều người ngạc nhiên là ngôi trường kỹ thuật này lại sản sinh ra cả chục nhà văn, nhà thơ, nhiều nhà báo và đông đảo nghệ sĩ vùng mỏ tài hoa, lực lượng nòng cốt của Hội Văn Nghệ Quảng Ninh sau này, tạo nên nét hiện đại riêng của văn hóa công nhân mỏ.

Năm 1960 tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Bác Hồ đã biểu dương phong trào thi đua “phá kỷ lục” của mỏ than Cọc Sáu, nhờ cán bộ đã cùng làm, cùng bàn bạc với công nhân, lắng nghe mọi ý kiến của công nhân và đáp ứng mọi nhu cầu sinh sống, học tập của mọi người. Khi thảo luận mục tiêu đặt ra cho Ngành Than vào năm 1965 phải đạt sản lượng 5 triệu tấn than, Bác Hồ hỏi Tổng giám đốc Trịnh Nguyên: - Năm triệu tấn có cao quá không? Ông Nguyên thành thực đáp: - Thưa Bác, nếu căn cứ vào công suất thiết kế ba mỏ cơ khí lộ thiên đã có ba triệu tấn, các mỏ hầm lò, các mỏ nhỏ  cũng có thể đạt trên hai triệu tấn nếu mở rộng tốt diện khai thác. Bác Hồ châm thuốc, đi ra cửa sổ nhả khói rồi quay lại ôn tồn nói: - Bác hiểu ý chú, thực ra chỉ cần đạt được 80% công suất thiết kế đã khá. Các chuyên gia đánh giá rất cao trình độ tay nghề và nhiệt tình lao động của thợ lái máy xúc, máy khoan, lái xe vận tải mỏ… Nhưng họ than phiền chúng ta chuẩn bị sản xuất chưa tốt, sự phối hợp giữa các khâu còn lủng củng, tùy tiện, không những năng suất thấp mà còn gây lãng phí điện năng, nguyên - nhiên liệu, vệ sinh công nghiệp chưa tốt, nhất là ô nhiễm môi trường. Nếu để lâu sẽ trở thành thói quen rất khó sửa chữa. Theo các chuyên gia, cần đổi mới cơ cấu tổ chức, đổi mới cung cách quản lý điều hành mới đẩy nhanh được sản lượng. Tháng 8 năm nay, Chính phủ sẽ ban hành quyết định thành lập Tổng công ty Than với tám xí nghiệp hạch toán độc lập, chú sẽ là Tổng Giám đốc đầu tiên của Ngành Than đấy; có làm được không?

Ông Trịnh Nguyên khẽ đáp: - Bất cứ việc gì Bác giao cháu cũng xin nỗ lực làm hết sức mình. Bác thủng thẳng tiếp: - Hiện nay chúng ta rất thiếu cán bộ vì phải chia lửa chia sức với miền Nam. Có nhiều ý kiến không nên để nhiều tỉnh nhỏ mà phải nhập một số tỉnh có điều kiện địa lý liền kề hỗ trợ nhau, Tỉnh Hải Ninh nhập với Khu Hồng Quảng, chú thấy có tốt không? Ông Trịnh Nguyên vui mừng đáp: - Bể than Đông Bắc kéo dài từ Đông Triều - Yên Tử đến múi Sa Vỹ, cửa khẩu Móng Cái thì bề thế lắm! Bác cười: - Nhưng chú sẽ mất chức Chủ tịch ủy ban, có lưu luyến không? - Dạ không, cháu kiêm hai chức thực ra cũng có nhiều mâu thuẫn khó giải quyết, nên nhiều việc phải nhờ các Phó chủ tịch lo giúp. - Vậy là rất tốt! Bác định đặt tên Quảng Ninh cho tỉnh mới. Nghĩa là vùng đất rộng, giàu đẹp, yên bình. Chú về trao đổi với mọi người rồi điện báo lại cho Bác nhé!...

Đầu năm 1962, Bác đích thân dẫn anh hùng vũ trụ của Liên Xô, Ti-Tốp, đi thăm Vịnh Hạ Long, đăt tên Ti-Tốp cho một hòn đảo thơ mộng. Người nói: Anh hùng Ti-Tốp đã chinh phụ vũ trụ bằng những tiến bộ phi thường của khoa học kỹ thuật Xô Viết. Công nhân mỏ Việt Nam đang làm chủ những thiêt bị hiện đại nhất của công nghệ khai khoáng Xô Viết, nên hãy dũng cảm, sáng tạo hơn nữa, chinh phục chiều sâu lòng đất, khai thác thật nhiều than cho tổ quốc. Muốn cơ khí hóa, hiện đại hóa đất nước phải có đội ngũ công nhân được trí thức hóa. Đó là điều anh hùng Ti-Tốp và Bác đã trao đổi rất nhiều điều bổ ích trên Vịnh Hạ Long…

 

NGÀNH THAN TRỞ THÀNH MỘT NGÀNH KINH TẾ GƯƠNG MẪU

Sau Chiến thắng Mồng Năm Tháng Tám năm 1964, quân dân miền Bắc bắn rơi 5 máy bay Mỹ, bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên trên Vịnh Hạ Long, Bác Hồ càng phấn khởi khi nghe Tổng công ty Than báo cáo đã sản xuất được trên 3,2 triệu tấn than sạch. Bác quyêt định về vui tết Ất Tỵ 1965 với công nhân mỏ và quân dân Quảng Ninh. Lần ấy, Bác giơ cao hòn than đen lấp lánh về phía hàng vạn người đứng chật kín bãi biển trước trường Trung học Hồng Gai, nói: - Than là vàng đen của tổ quốc, là nguồn năng lượng quý báu cho phát triển công nhiệp hiện đại toàn cầu. Than của ta không những cho nhiệt lượng cao mà còn có thế chế biến ra nhiều sản phẩm hóa than rất giá trị. Bác rất vui mừng khi công nhân mỏ đã sản xuất được 3,2 triệu tấn than sạch. Quân dân Quảng Ninh lại góp phần quan trọng vào chiến thắng mồng 5 tháng 8, bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên, nâng tầm vóc trận thắng đầu trên không của Việt Nam với toàn thế giới… Bác trao cho công nhân cán bộ Ngành Than lá cờ thi đua luân lưu mỗi quý bình chọn một lần, quý đầu này tạm giao cho Đèo Nai vì Đèo Nai sản xuất giỏi, chăm lo đời sống tốt, có nhà ăn Than Trụ được đông công nhân khen ngợi. Bác mong toàn thể công nhân mỏ và quân dân Quảng Ninh vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, đón xuân mới đầm ấm vui tươi…

Phong trào thi đua giành cờ luân lưu của Bác sôi động khắp Ngành Than trong nhiều năm liền với những tiêu chí rất cao, không chỉ phải vượt kế hoạch mà còn phải bảo đảm an toàn, an ninh, có nhiều sáng kiến cải tiến, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề…

Do tình hình chiến tranh leo thang, máy bay Mỹ liên tục ném bom hủy diệt, tình hình sản xuất than bị chững lại, trì trệ kéo dài dù đã có nhiều thay đổi mô hình tổ chức. Quý IV hàng năm thường là mùa than, Bác luôn nhận được nhiều bản báo công vượt kế hoạch của các xí nghiệp Ngành Than gửi lên. Năm 1968, Bác biết các mỏ gặp nhiều khó khăn nên đã giao cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng nhiều Bộ trưởng xuống trực giải quyết mọi vướng mắc, cản trở.

Chiến tranh càng ác liệt càng cần nhiều than xuất khẩu. Gần đến ngày Hội Truyền thống Ngành Than 12/11, Bác rất muốn về vùng mỏ nhưng sức khỏe đang yếu, không thể đi xa được. Bác quyết định mời đoàn đại biểu Ngành Than và quân đân Quảng Ninh lên gặp tại Phủ Chủ tịch. Khi vào họp, Bác thân mật thăm hỏi từng đại biểu, nghe họ tâm sự nhiều chuyện ở mỏ mà không hề sử dụng bài nói chuyện khá dài, rất sâu sắc và tâm huyết mà Người đã thức chuẩn bị từ đêm trước. Sau đó bài viết này được công bố như một món quà nhỏ từ tấm lòng Bác gửi đến mọi gia đình công nhân cán bộ Ngành Than. Trong bài viết có đoạn: “Ngành sản xuất Than cũng như quân đội đánh giặc, toàn thể công nhân cán bộ phải có tinh thần yêu nước rất cao, ý chí quyết chiến, quyết thắng rất vững; phải đoàn kết đông tâm, tất cả vì một mục đích chung là sản xuất thật nhiều than cho tổ quốc…

Thực hiện di chúc thiêng liêng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng toàn dân và những di huấn riêng của Người dành cho mình, 50 năm qua, công nhân cán bộ Ngành Than nói riêng, và cũng chính là những hạt nhân đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam, đã không ngừng tự đổi mới, tự đào tạo lại mình để đáp ứng kịp thời nhu cầu của sự nghiệp xây dựng, kiến thiết đất nước. Đặc biệt là những hoạt động cụ thể và thiết thực nhằm tiếp tục thực hiện đầy sáng tạo và rất thành công khát vọng trí thức hóa thợ mỏ của Người; xứng đáng là những người tiên phong của giai cấp tiên phong

50 năm đã trôi qua, thấm nhuần lời dạy của Người, cho đến tận hôm nay, mỗi thợ mỏ vào ca vẫn mang theo trong lòng một tâm thức như bước vào một trận đánh mới, mà vũ khí lúc này hoàn toàn khác trước. Đó là vũ khí của trí tuệ và tài năng. Vũ khí ấy từ hơn nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã nhận diện ra và hết lòng vun đắp...

Nguồn Văn nghệ số 35+36/2019

 

 

 

 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

   


Có thể bạn quan tâm