April 19, 2024, 9:08 pm

Ba “ĐIỂM NHẤN” mang giá trị văn hóa truyền thống

 

Qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mặc dầu bị đô hộ, dân tộc ta vẫn kiên trung, bất khuất chống giặc ngoại xâm, vẫn xây dựng nên một kho báu giá trị tinh thần chói sáng cho đến thời đại chúng ta. Giá trị là một phạm trù triết học, xã hội học quy định tính hữu ích, có ý nghĩa đối với tiến trình phát triển văn minh, văn hóa của dân tộc, được nhân dân sáng tạo bồi đắp qua nhiều thế kỷ. Bài viết này chỉ bàn đến ba hiện tượng lịch sử - văn hóa được coi là ba chấm son chói lọi đánh dấu sự phát triển văn minh của dân tộc Việt. Đó là triết học tam giáo và tính chủ biệt của văn hóa nước Nam, tiếng Việt - chữ Hán Nôm là bước phát triển mới của nền văn minh Việt, và hiền tài - trước tác là nội dung của văn hiến dân tộc.

Triết học Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và tính độc lập tương đối của văn hóa Việt

Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức do Khổng Tử (551-479) sáng lập vào cuối thế kỷ VI (trước Công Nguyên) được lưu truyền ở Trung Quốc và một số nước phương Đông, trong đó có nước ta. Học thuyết này đề xướng đường lối chính trị đức trị, coi giáo dục đạo đức, luân lý lấy lễ nhân làm hạt nhân; tu thân để trị dân, lấy lễ để chế tài, lấy nhân để cảm hóa.

Nho giáo có nhiều yếu tố tích cực, nhưng cũng có nhiều mặt tiêu cực. Vận mệnh nó gắn liền với giai cấp phong kiến Trung Quốc. Khi giai cấp này suy yếu thì Nho giáo cũng mất vai trò ảnh hưởng. Nho giáo du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc là triết học được Hán Nho cải biên, thích ứng với yêu cầu của chế độ phong kiến tập quyền. Từ đời Hán những nhà triết học này đã đề xướng Văn trị giáo hóa để hưng quốc, yên dân. Vào nước ta, những mặt tích cực của học thuyết Nho giáo được các bậc danh nhân, Nho gia chân chính vận dụng sáng tạo để xây đắp nền văn hiến của nước Nam.

Nói đến luân lý của Nho giáo là nói ngũ luân, ngũ thường, cái mà Trời cho, rút lại thanh tam cương (quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ-chồng, về sau nữa chỉ còn trung hiếu). Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng hai phạm trù này để diễn đạt hai nội dung mới: trung với Nước, hiếu với Dân. Ngũ thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tính được Bác Hồ khái quát theo những yêu cầu của thời đại mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Còn chữ nhân được Người nâng lên thành triết lý chủ nghĩa nhân đạo, lợi ích của con người, sự phát triển toàn diện của con người.

Đạo Nho đề cao nền chính trị “đức hóa”, theo đạo nhân là một bước tiến của lịch sử Trung Quốc cổ đại. Trong  phạm trù đức hóa, Bác Hồ tâm đắc luận điểm này của Khổng Tử: “Người có nước, có nhà không sợ ít của, mà chỉ sợ chia không đều, không sợ ít dân, chỉ sợ không yên ổn, vì rằng chia đều thì sẽ không nghèo, hòa mục thì sẽ không sợ ít, yên ổn thì sẽ không nghiêng đổ” thì ai cũng dễ liên tưởng đến câu của Bác Hồ nói đến công bằng xã hội: “không sợ thiếu mà sợ sự phân phối không đều, không sợ nghèo mà sợ lòng dân không yên…”.

 Đạo giáo đã xuất hiện ở nước ta từ thời Bắc thuộc. Có hai phái là Đạo giáo thần tiên Đạo giáo phù thủy. Quan niệm tổng quan của Đạo giáo cho rằng, sống ở trên đời là một niềm vui, chết mới là đau khổ, chủ trương siêu thoát cuộc sống, bài trừ thú hưởng lạc, xuất gia vào núi mới là tu đạo, thông qua những sinh hoạt giáo dục đặc biệt như ngồi thiền, cầu thánh thần để được sống vĩnh hằng, sung sướng. Đó là thứ giáo lý trọng sống, khuyến khích con người tu luyện sức khỏe để kéo dài tuổi thọ, lý tưởng sống là thành Tiên. Triết lý của Đạo giáo là thuyết vô vi của Lão Tử. Đầu thế kỷ XX, đời chúa Nguyễn, vua Tự Đức nhận xét rằng, Đạo giáo thì có trăm cái sai chỉ có một cái đúng là tôn thiên nhiên. Các bậc Nho sỹ, chân tu thường có lối sống rất “biết điều”... Được ít không chê, được nhiều không mừng, ngủ không mộng mị, thức không lo buồn, ăn không cần ngon, tâm hồn sáng suốt, dung mạo bình thản, trán không bị nhăn, lặng lẽ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, vui vẻ với bốn mùa, phù hợp với ngoại vật, ngoại cảnh…

Phật giáo có bề dày lịch sử ba nghìn năm thì cũng tồn tại ở nước ta chỉ ít làm 15 thế kỷ. Vào Việt Nam đạo Phật được bản địa hóa, dân gian hóa. Người ta không cần biết đến những giáo lý cao siêu, mà chỉ quan tâm đến chuyện cầu an, cầu phúc, quả báo luân hồi. Vào đầu thế kỷ XX, vai trò của Phật giáo có những hành động hướng thiện trong sự nghiệp cứu nước… Nhiều sỹ phu nương nhờ cửa Phật, tham gia các hội kín và phong trào yêu nước. Các vua thời Trần đã dùng, về sau Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dùng: “cổ lai quốc dĩ dân vi bản”, v.v… Nội dung này được Hồ Chủ Tịch cụ thể hóa: “phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của Dân. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng. Phải luôn luôn chăm lo đời sống của Dân. Phải chí công vô tư và có ý thức lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”

 

Tiếng Việt - chữ Hán Nôm là bước phát triển mới của nền văn minh Việt

 Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Bắc từ rất sớm, vào đầu những năm trước Công Nguyên, mạnh mẽ nhất vào đầu thế kỷ I đến thế kỷ X qua con đường các quan lại sang đô hộ, qua việc tiếp xúc với sĩ phu ngoại bang. Từ đó tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc tiếng Hán. Nhưng ngay từ thời Ngô Quyền, vào năm 939, một quá trình xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, trong đó có tiếng Việt.

Một trong nhiều đặc điểm của tiếng Việt là tính súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu, gợi cảm, giàu tính nhạc, tính thơ được thể hiện qua ca dao, đồng dao, tục ngữ, cách ngôn, v.v... lúc tiếng Hán và chữ Hán thâm nhập vào nước ta, dân tộc ta chưa có chữ viết, cũng có thể có, nhưng bị mai một, hoặc còn lại dấu vết về văn tự... Điều chắc chắn người Việt có tiếng nói rất cổ ở vùng Nam Á. Như một quy luật nhu cầu nội tại của đời sống tinh thần, nhân dân đã biến cái không thể thành cái có thể với ý thức độc lập, tạo nên bản lĩnh văn hóa trong quá trình giao tiếp với văn hóa ngoại bang. Thế là chữ Nôm ra đời, được cải tiến và hoàn thiện với đời Tống - Đường. Nhiều thế hệ học giả, Nho sỹ đời sau hoàn chỉnh tự hình của chữ Nôm cho đến tận đầu thế kỷ XX. Có chữ viết là cơ sở để hình thành nền văn chương quốc âm phản ánh đời sống sinh hoạt đương thời tiếp nhận những điển tích trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa. Phải đến đầu thế kỷ XV mới xuất hiện: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập của nhiều tác giả đời Lê Thánh Tông, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Tiếp theo là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với tập thơ Bạch vân quốc ngữ thi phản ánh nhiều hiện tượng của đời sống xã hội…

Từ thế kỷ XVI đến vài thế kỷ sau, văn chương chữ Nôm phát triển mạnh, bất chấp triều đình Lê - Trịnh hạn chế việc in sách Nôm. Những tác phẩm nổi tiếng như Lâm tuyền kỳ ngộ, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, v.v... vẫn cứ lưu hành trong nhân dân. Đặc biệt đáng chú ý là bộ lịch sử diễn ca viết bằng chữ Nôm: Thiên Nam ngữ lục gồm khoảng 8000 câu lục bát miêu thuật những hiện tượng lịch sử đất nước Nam từ thời Hồng Bàng đến nhà Mạc. Qua bao nhiêu biến cố lịch sử, phải đến đầu thế kỷ XVIII trở đi mới được coi là giai đoạn phát triển rực rỡ của văn thơ quốc âm. Ngoài những truyện nôm khuyết danh, chứa nhiều giá trị đạo đức, luân lý gia phong, phong tục dân tộc, là sự xuất hiện nhiều tác giả lớn với những áng văn hay phản ánh trí tuệ, sức sống, vẻ đẹp của tiếng Việt.

 

Hiền tài, trước tác là gốc của văn hiến dân tộc

Văn hiến Việt Nam là một giá trị bền vững được ghi lại trong thư tịch từ xưa đến nay. Văn là khuôn phép, trước tác, lễ nghĩa, điển chương, sách vở; Hiến là người hiền tài, bậc chí sỹ. Người dùng khái niệm Văn Hiến đầu tiên có thể là Nguyễn Trãi (1380-1442) trong Bình ngô Đại cáo: Xem như nước Đại Việt, thật là một nước văn hiến… Trước Nguyễn Trãi 400 năm, Lý Thường Kiệt (1019-1105) khẳng định nền văn hiến qua áng thơ nổi tiếng: Nam quốc sơn hà nam đế cư. Ngô Thì Nhậm (1746-1801) lấy làm tự hào được sinh ra ở đất phương Nam, có nền văn hiến nước Nam. Các bậc danh nho ở nhiều thời đại khác nhau đều coi Việt Nam là nước văn hiến Phương Nam, có nền văn minh đứng hàng đầu Trung Châu không nhường Hán - Ngụy, v.v... Ngô Thì Nhậm coi văn hiến giữ nước, khi viết bài Tựa tập thơ Tình sà kỳ hành của Phan Huy Ích đã nói đến bộ Toàn Việt thi lục để so sánh thơ ca từ thời Lý Trần cho đến Hậu Lê là không nhường thi ca các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh về nội dung và thi pháp.

 Tuy nhiên, hơn một nghìn năm Hán hóa, văn hóa nước ta bị kẹt vào cái vỏ bọc phong kiến Trung Hoa, rập khuôn mô phỏng, sức sáng tạo của Nho sỹ bị hạn chế. Một khối tư liệu văn bản học của Bắc sử và sử nước Nam, của chính sử và huyền thoại, của văn chương bác học và văn học bình dân, v.v.... nói lên tính phức tạp, nhầm lẫn giữa hai nền văn hóa vừa tương đồng, vừa dị bản… Trong Kiến văn tiểu lục, học giả Lê Quý Đôn ghi lại 40 bài thơ mà tác giả là thiền sư Hương Hải, thì có đến 32 bài là của các nhà thơ Trung Hoa đời Tống. Dưới thời Nguyễn bài thơ Kiều Trang Khuyết là một trong bốn bài thơ chữ Hán được ghi phụ lục tập Vương Thúy Kiều Truyện, nhiều nhà khảo cứu cho là của Nguyễn Du ghi lại mối tình của bà Đỗ Thị Nhật với nhà thơ, khi ông đương chức quan văn ở Huế, đinh ninh nhà thơ đã yêu người phụ nữ hoàng tộc và đây là nguồn cảm hứng để nhà thơ viết Truyện Kiều. Thật ra, theo các sách: Thanh triều thống chí, Thi thoại loại biên thì bài thơ Kiều Trang Khuyết là của Giang Vĩnh - một học giả lớn đời Thanh. Bài thơ ghi lại những kỷ niệm dưới bút danh Ngô Hoàng Thị… Thực trạng đó đòi hỏi ngày nay chúng ta phải có một công cụ khảo cứu dựa trên ý niệm duy lý và “dấu chân thực tiễn”.

 Khi nói đến văn hiến dân tộc, lịch sử đã chép lại ba câu châm ngôn về hiền tài của nội hàm gần giống nhau: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia do vị đại khoa Thân Nhàn Trung viết trên bia tiến sỹ năm Nhâm Tuất (1442). Về sau, Nguyễn Kiều, tác giả bài ký bia Chính Hòa 4 (1683) viết: Hiền tài là khí dụng của quốc gia, còn câu Hiền tài là nền tảng của quốc gia do học giả Nguyễn Quý Đức viết trên bia Vĩnh Thịnh (1715), v.v... Đủ biết, cách diễn đạt ở ba thời đại khác nhau, nhưng nội dung, thuyết ngôn: nguyên khí, khí dụng, nền tảng ý nghĩa tương đồng phản ánh khả năng tư duy minh triết của cha ông ta đã có từ lâu.

Nguồn Văn nghệ số 35+36/2018

 

 

 


Có thể bạn quan tâm